Hiền tài là nguồn lực, là nguyên khí quốc gia

(Mặt trận) - “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nhân tài luôn là nguồn lực của mọi sự phát triển. Và như cách nói của người xưa, đó là gốc rễ của sự nghiệp chấn hưng đất nước. Để có thể thực hiện khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, việc quan trọng cần phải làm trước hết, đó là sự coi trọng và sử dụng hiền tài theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Vai trò của đội ngũ trí thức, của những bậc hiền tài

Từ xa xưa, cha ông ta đã hết sức coi trọng hiền tài. Nguyễn Trãi từng viết trong Bình Ngô đại cáo: “Duy ngã Đại Việt chi quốc/Thực vi văn hiến chi bang” (Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu). Chính “Văn hiến chi bang” này cũng được Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương), ông vua đầu của nhà Minh thừa nhận khi Doãn Thuấn Thần được vua Trần Dụ Tông sang sứ thực hiện bang giao.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho Đại học Quốc gia Hà Nội tại Lễ Kỷ niệm 30 năm ngày Chính phủ ban hành Nghị định về Đại học Quốc gia Hà Nội (10/12/1993 - 10/12/2023) và 117 năm truyền thống (1906 - 2023).      ẢNH: NGỌC DƯ 

Thân Nhân Trung khi khắc bia tiến sĩ tại Văn Miếu, khẳng định: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí".

Chữ Hiến trong “văn hiến” chỉ người hiền tài. Hiền tài, khi sống là trụ cột quốc gia, khi mất là khí thiêng sông núi. Tài năng, đức độ của họ vẫn sống trong lòng Nhân dân, do đó vẫn là một sức mạnh vật chất của hiện tại và tương lai.

Bác Hồ khẳng định: “Kiến thiết cần phải có nhân tài”.

Bản thân Bác là một hiền tài.

Đánh giá đóng góp của người tài, vai trò cá nhân trong lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã viết trên báo Nhân Dân số đầu ngày 11/3/1951, Hồ Chủ tịch, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta: “Chúng ta lập được thành tích cách mạng như ngày nay là nhờ biết bao đồng chí, biết bao chiến sĩ đã hy sinh cho cách mạng, biết bao đảng viên và quần chúng đã vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng do Ðảng đề ra. Song một phần quan trọng là nhờ công lao vĩ đại của Hồ Chủ tịch, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Ðảng ta”.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.

Câu chuyện ngày xưa

Thời Chiến quốc (475 - 221 Tr. CN), Trung Quốc có 7 nước tranh hùng, tranh bá. Nước nào cũng muốn có người tài. Các mưu sĩ tiến cử với vua Tề Tuyên Vương là Điền Cương, rằng có một kẻ sĩ tên là Nhan Súc. Tề Tuyên Vương tìm đến nhà Nhan Súc. Vua bảo: “Súc lại đây”. Nhan Súc cũng bảo: “Vua lại đây”. Có người sợ Súc phạm thượng sẽ bị chém đầu. Nhan Súc nói: Vua gọi Súc mà Súc lại thì Súc là người hoặc ham, hoặc sợ quyền thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua là người quý trọng hiền sĩ. Để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài có tốt hơn chăng? Vua Tuyên Vương nói: “Than ôi! Người quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho”.

Ở nước ta, Nguyễn Trãi từng thay mặt Lê Lợi viết chiếu cầu hiền, lệnh cho toàn dân và các quan phải tiến cử hiền tài cho đất nước và có chính sách rõ ràng: “Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bậc, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bậc, tất được trọng thưởng". Trong Bình Ngô đại cáo, ông cũng viết: Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả... (các vương giả thời cổ xưa đi xe ngựa thường bỏ trống chỗ đẹp nhất bên trái để tỏ ý cầu hiền).

Theo gương Bác dùng người hiền

Để chiêu mộ và dùng được người tài giỏi thì người đứng đầu quốc gia thật sự phải là một người tài giỏi; nhưng hơn cả là có một đức bao dung vô lượng, một tấm lòng lo nước, lo dân cuồn cuộn như nước triều đông, ai nhìn thấy cũng bị cảm hóa.

Thứ nhất, Bác Hồ là người có tất cả những điều ấy, là tấm gương sáng nhất trong lịch sử về sự quý trọng và sử dụng người tài.

Điều ấy có căn nguyên sâu xa. Bác sinh ra trong một gia đình khoa bảng, trên một quê hương mà lòng yêu nước, thương người, đức trung hiếu được coi là giá trị bậc nhất của con người. Với tâm hồn thuần khiết, cộng với sự trau dồi đạo đức luôn luôn đi liền với việc bồi bổ tri thức (với Bác gồm đủ Đông Tây kim cổ, đủ Nho Phật Lão và nhiều triết thuyết, nhiều ngành khoa học khác), lại có một mục đích cao cả cứu nước, cứu dân, Bác luôn yêu quý, trân trọng người hiền tài.

Thứ hai, Bác là người tự do, tự tại, không sợ tranh giành địa vị.

Bác Hồ của chúng ta lại là người đã tự giải phóng mình thành một người tuyệt đối tự do; tự do yêu nước và cống hiến, ung dung tự tại, thoát vượt khỏi mọi ràng buộc của tiền tài, địa vị và các vật ngoại thân khác; thoát vượt khỏi mọi ràng buộc của thói thường. Đọc câu Bác trả lời một phóng viên nước ngoài năm 1946, và nhìn lại cả cuộc đời của Bác, ta thấy rất rõ điều đó: "Tôi tuyệt nhiên không ham công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi" (Báo Cứu quốc ngày 21/1/1946).

Thứ ba, Bác là người hiểu và muốn cán bộ, đảng viên và các thế hệ hiểu và làm theo chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

Trong Chính phủ lâm thời, rồi đến Chính phủ Liên hiệp lâm thời, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (do Quốc hội khóa I bầu), có nhiều bộ trưởng là những chuyên gia, những nhà trí thức không phải đảng viên Đảng Cộng sản như Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng Cứu tế xã hội, sau là Trưởng ban Thường trực (Chủ tịch) Quốc hội (người thay Nguyễn Văn Tố làm Thường trực Quốc hội là Bùi Bằng Đoàn, trước đây là Thượng thư Bộ Hình); Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ, có thời gian là Quyền Chủ tịch nước; Vũ Trọng Khánh rồi Vũ Đình Hòe là Bộ trưởng Tư pháp... Trong 15 thành viên Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, chỉ có ba người thuộc Mặt trận Việt Minh là Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Lê Văn Hiến (Bộ trưởng Tài chính) và Đặng Thai Mai (Bộ trưởng Giáo dục).

Chính phủ còn mời cựu hoàng Bảo Đại làm cố vấn, bố trí biệt thự sang trọng ở số 51 phố Gambetta, nay là trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, số 51, Trần Hưng Đạo.

Tư tưởng về Đảng của Bác cũng hết sức nhất quán, rõ ràng. Đó là Đảng gồm những người dân yêu nước, phấn đấu vì lợi ích của đất nước, thống nhất với dân tộc, ngoại trừ kẻ phản quốc và tham nhũng. Trong bài trả lời phỏng vấn báo nước ngoài đăng trên Báo Cứu quốc ngày 21/1/1946, Bác khẳng định: “Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Ðảng dân tộc Việt Nam. Ðảng đó chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Ðảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài".

Trong diễn văn kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, ngày 3/2/1960, Bác viết: “Ðảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Ðảng ta không có lợi ích gì khác”.

Trước đó, năm 1955, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Bác Hồ cho rằng, Đảng đã và sẽ phải là “tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”1.

Trí tuệ, danh dự, lương tâm - đó chính là bản chất của kẻ sĩ, của những bậc hiền tài.

Thư Bác viết cho cụ Bùi Bằng Đoàn:

"Thưa Ngài,

Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe. Kính thư".

Sau đó, Bác Hồ lại gửi một bức thư khác, đề là “Lời tâm tri” và chỉ vẻn vẹn một câu thơ: Thu thủy tàn hà thính vũ thanh khiến cụ Bùi không ở ẩn nữa mà xuất thế giúp đời. Tại sao câu thơ có ảnh hưởng lớn đến thế?

Nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường có bài thơ “Túc Lạc thị đình ký hoài Thôi Ung, Thôi Cổn” nói về ngày thu, ở đình nhà họ Lạc nhớ hai em họ là Thôi Ung và Thôi Cổn như sau:

Trúc ổ vô trần thuỷ hạm thanh,

Tương tư điều đệ cách trùng thành.

Thu âm bất tản sương phi vãn,

Lưu đắc khô hà thính vũ thanh.

Tạm dịch là:

Nước mướt xanh hiên, trúc mướt bờ

Cách trùng thành quách, khổ tương tư

Bóng thu không tản, sương bay hết

Còn lá sen tàn lắng tiếng mưa!

Bác mượn câu kết, có sửa đi mấy chữ, thành “Thu thủy tàn hà thính vũ thanh”, vừa tóm được ý toàn bài, vừa nói lên nỗi lòng tha thiết mong người tài như hồ cạn mong mưa. Cũng có thể hiểu một ngụ ý sâu xa : Dòng nước mùa thu (cách mạng), đã làm tàn chế độ cũ (tàn hà), đang chờ tất cả mọi giọt nước hòa vào (thính vũ thanh).

 Vì sự tri âm ấy, mà mọi người đều dốc lòng theo Bác, dốc lòng cho sự nghiệp.

Năm 1946, Bác Hồ sang Pháp nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Dù câu chuyện không thành, một nền hòa bình cho Đông Dương bị bỏ lỡ, nhưng Bác đã cảm hóa được một đội ngũ đông đảo trí thức lớn về nước như Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ), Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, Lê Văn Thiêm, Hoàng Xuân Nhị... Họ, cùng với trí thức trong nước, là trụ cột của các ngành khoa học cơ bản, các ngành kỹ thuật, luyện kim, y dược, quân giới... phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và mở trường đại học đào tạo các thế hệ trí thức cách mạng. Lớp trí thức Tây học này đều có tên tuổi ở nước ngoài, nhưng gặp Bác Hồ đều trọng vì nghĩa, phục vì tài.

Giáo sư Hồ Đắc Di (1900-1984), học ở Pháp từ năm 1918-1932, ông là Giáo sư Y học đầu tiên và duy nhất của Việt Nam trước năm 1945, coi quãng đời ý nghĩa nhất của mình là quãng đời theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân.

Trong cuốn hồi ký “Để tâm hồn được thanh thản”, ông viết: “Càng sống lâu, càng suy ngẫm, càng hiểu biết rộng, càng nhìn thấu kim cổ đông tây, ta càng thấy rõ Bác Hồ của chúng ta quả là bậc vĩ nhân của các vĩ nhân”.

Chú thích:

1.  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 7, tr.517.

Nguyễn Sĩ Đại -  Nguyên phóng viên Báo Nhân dân

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều