Một số suy nghĩ về xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật nhằm ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

(Mặt trận) - Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tác phẩm có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt cả về phương diện lý luận và thực tiễn; thể hiện tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định của người đứng đầu Đảng ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, tác phẩm thể hiện sự phát triển sáng tạo, góp phần hoàn thiện tư duy lý luận về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong phú và rút ra những vấn đề có tính lý luận về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” khẳng định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “một việc làm cần thiết, một tất yếu, một xu hướng không thể đảo ngược”. Mục tiêu là “nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước”. Từ đó, tác phẩm đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới.

Về phương hướng và nhiệm vụ đồng chí Tổng Bí thư đề ra là: Công tác xây dựng hoàn thiện thể chế chính sách trên các lĩnh vực, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ, từ sớm, từ xa để đảm bảo “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng. Để làm điều đó, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ:

“Để chủ động tích cực phòng ngừa cần phải tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế, chính sách về kinh tế - xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”. “Thể chế về xây dựng chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện đồng bộ, kịp thời, khắc phục những bất cập, bịt kín những khoảng trống”, “kẽ hở”, không thể tham nhũng, tiêu cực”.

Đồng chí phân tích: “Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng, cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tiêu cực, tham nhũng.

Phải xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ đảng viên nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức liêm chính, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội để hạn chế tác động tiêu cực “của lợi ích nhóm”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực từ khi xây dựng chính sách, pháp luật”.

Khẩn trương hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ người tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, khuyến khích và bảo vệ cán bộ đảng viên, người đứng đầu đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta chỉ ra rằng, trong tất cả các giai đoạn triển khai từ khâu phòng ngừa, phát hiện đến xử lý tham nhũng đều có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại cuộc họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ 4, năm 2022-2023.           ẢNH: KỲ ANH

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tích cực tham gia, động viên Nhân dân, thành viên của mình tham gia vào việc phòng ngừa, phát hiện tham nhũng và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý tham nhũng, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Để hình thành cơ chế, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã thể chế hóa Điều 9 của Hiến pháp năm 2013 về giám sát và phản biện xã hội thành 2 chương: Chương V hoạt động giám sát và Chương VI hoạt động phản biện.

Giám sát xã hội quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 là phương tiện để Mặt trận các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ. Còn phản biện xã hội là phương tiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước trước khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành chính thức các văn bản tác động đến đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

Cả hai phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước trước và sau của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có tác dụng phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Vì thế, phát huy đầy đủ trách nhiệm của các chủ thể không phải nhà nước, nhưng lại là những chủ thể quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của quyền lực nhà nước, sẽ là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

Nội dung của các cuộc giám sát của Mặt trận Tổ quốc chủ yếu tập trung vào những vấn đề trực tiếp gắn với cuộc sống của Nhân dân, gắn với các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Theo đó, nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong phòng, chống tham nhũng là việc tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của các cấp chính quyền và của những cá nhân có trách nhiệm trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.

Để thực hiện những tư trưởng chỉ đạo rất sâu sắc, rất cụ thể, toàn diện của đồng chí Tổng Bí thư về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nêu trên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là “một liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài” có vai trò rất to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến, thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dẫn đầu đoàn công tác có buổi làm việc, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với Tỉnh ủy Hậu Giang, tháng 12/2022.

ẢNH: QUỐC TRUNG

Một là, đề nghị Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiến nghị với Quốc hội sớm đưa vào chương trình xây dựng Luật của Quốc hội: Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng để đưa hành vi lũng đoạn Nhà nước vào hai dự án luật này.

Hiện nay, Bộ luật Hình sự cũng như Luật Phòng, chống tham nhũng của nước ta chưa có các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa các doanh nhân, doanh nghiệp thao túng những người có chức, có quyền ở các cấp chính quyền từ Trung ương cho đến chính quyền các cấp.

Hay nói cách khác, đó là các tình hưống mà các cá nhân, tổ chức, công ty hoặc tập đoàn kinh tế mạnh có quyền lực trong hoặc ngoài quốc gia sử dụng những thủ đoạn bất chính để tác động lên những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước nhằm thao túng quá trình ra quyết định chính sách của Nhà nước (Trung ương hoặc địa phương), tác động vào các quyết định quan trọng về kinh tế ở các cấp, các ngành nhằm thu lợi cho bản thân như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ tra trong cuốn sách.

Với bản chất của hành vi lũng đoạn nhà nước nói trên, có thể nói lũng đoạn nhà nước là một dạng tham nhũng, nhưng đây là tham nhũng chính trị hay còn gọi là tham nhũng lớn. Bởi đây là hình thức tham nhũng tìm kiếm lợi bất chính bằng cách tác động vào quá trình xây dựng chính sách, ra quyết định kinh tế để “lái” hoặc “định hướng” các chính sách, pháp luật phù hợp với ý chí và mong muốn của nhóm lợi ích.

Theo đó, hành vi lũng đoạn nhà nước là một dạng tham nhũng khác hoàn toàn với hành vi thông thường là tìm kiếm lợi ích bất chính trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật bằng cách không làm hoặc làm không đúng, trái với chính sách, pháp luật. Như vậy, lũng đoạn nhà nước là một dạng tham nhũng rất nguy hiểm đã xảy ra ở nhiều nước.

Ở nước ta, tuy chưa có biểu hiện rõ ràng, nhưng thực tiễn đã chỉ ra có hiện tượng các doanh nghiệp thân tín được hưởng lợi bất chính về các quyết định kinh tế cụ thể như thay đổi quy hoạch, điều chỉnh quy mô dự án, ra văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật có lợi ích cho họ.

Vì vậy, đề nghị Luật Phòng, chống tham nhũng cần có những quy định về những hành vi thao túng quyền lực của doanh nghiệp đối với những người có chức vụ, quyền hạn. Đồng thời, phải tiếp tục rà soát, bổ sung hoàn thiện các quy định về minh bạch quy trình hoạch định thực thi chính sách trong đó phải xây dựng các quy định:

+ Quy định về quy trình đánh giá tác động của tham nhũng đối với các dự thảo, quyết định chính sách.

+ Công bố biên bản họp ở các giai đoạn cụ thể của quá trình hoạch định chính sách.

+ Quy định về cơ chế khuyến khích tham vấn cộng đồng về dự thảo các văn bản, quyết định về kinh tế.

+ Quy định pháp luật về vận động hành lang (xây dựng Luật vận động hành lang).

Hai là, hoàn thiện các chế tài xử lý các hành vi tham nhũng.

Theo giải pháp này, cần tiến hành:

1) Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài xử lý tham nhũng.

2) Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm hối lộ và xây dựng chế tài thích hợp với pháp nhân. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân và giới hạn trong 31 tội danh, trong đó, không có tội hối lộ. Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hành vi hối lộ là cần thiết.

Ba là, cần cụ thể hóa trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tham nhũng.

Các quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tình trạng tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng; cơ chế xác định người đứng đầu và phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu còn thiếu cụ thể… là nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của việc thực hiện cơ chế phát hiện tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức.

Bốn là, cần tiếp tục thể chế hóa quy định về xung đột lợi ích trong thi hành công vụ trong Luật Phòng, chống tham nhũng.

Các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến xung đột lợi ích chủ yếu mới chỉ dừng ở bản thân cán bộ, công chức. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho việc kiểm soát xung đột lợi ích trên thực tế gặp nhiều khó khăn do các cán bộ, công chức có thể sử dụng các quan hệ thân quen khác để “che đậy” các tình huống xung đột lợi ích.

Vì vậy, bên cạnh việc quy định “cứng” các cán bộ, công chức trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật kiểm soát xung đột lợi ích, cần thiết phải mở rộng phạm vi ra các đối tượng thân quen khác của cán bộ, công chức, bao gồm vợ/chồng, con đẻ, con nuôi, anh, chị, em ruột, bố/mẹ đẻ, bố/mẹ nuôi (quan hệ hôn nhân, gia đình).

Các quy định về tặng quà và nhận quà hiện chưa được thực hiện hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, cần hoàn thiện các quy định về tặng quà và nhận quà tặng theo hướng cán bộ, công chức làm trong những ngành, lĩnh vực dễ có rủi ro xung đột lợi ích như đấu thầu, cấp phép, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm, hay những lĩnh vực đòi hỏi phải tương tác nhiều với người dân và doanh nghiệp như thuế, hải quan, thanh tra và kiểm tra.

Năm là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định về tố tụng tư pháp.

Các quy định pháp luật về tố tụng tư pháp còn nặng về phối hợp mà chưa chú trọng đúng mức đến cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau giữa ba cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc chế ước lẫn nhau giữa ba cơ quan thực chất bị yếu tố phối hợp chi phối. Cơ chế phát hiện, xử lý hành vi tiêu cực của các chức danh tư pháp như điều tra, kiểm soát viên, thẩm phán chưa rõ ràng, minh bạch cả về hình thức, căn cứ, trình tự, thẩm quyền và hậu quả pháp lý.

Vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp và chế ước giữa các chức danh tư pháp nhằm hạn chế những tham nhũng, tiêu cực ngay trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tài liệu tham khảo

1.   GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

2.  GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (2019), Bài phát biểu Kết luận tại Hội nghị của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 25/6/2018.

3.  GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (2019), Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.206.

5. Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 về banh hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

6.  Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 về ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

7.  Chính phủ (2019), Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 1/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng.

8.  Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay (Báo cáo số 87-BC/MTTW-ĐĐ, ngày 26/4/2018).

9.  Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

10.  Quốc hội (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

11.  Quốc hội (2018), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

Trần Ngọc Đường - Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn

Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều