Một số quan điểm về đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

(Mặt trận) -  Cùng với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng, quê hương, đất nước đã trở thành quy luật sinh tồn của dân tộc ta, là “quốc bảo” giữ nước, chống lại mọi nguy cơ vong quốc và vong bản qua hàng nghìn năm thử thách nghiệt ngã của lịch sử. Từ khi Đảng ta ra đời, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nâng tầm thời đại trở thành đường lối chiến lược, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận để kịp thời giải đáp và mở đường cho thực tiễn phát triển. Cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết một cách toàn diện, sâu sắc những quan điểm cơ bản của Đảng ta và Tổng Bí thư về đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.

Với gần 750 trang, nội dung cuốn sách gồm bài Tổng quan và 75 bài nói, bài viết, bài phát biểu tiêu biểu, bài trả lời phỏng vấn, thư, lời kêu gọi cùng với 142 bức ảnh phản ánh sinh động các chuyến thăm và làm việc ở địa phương, cơ sở của 63 tỉnh, thành phố của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trên các cương vị: Bí thư Thành ủy Hà Nội (1/2000 - 6/2006), Chủ tịch Quốc hội (6/2006 - 7/2011), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1/2011 - đến nay), Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016 - 2021 (10/2018 - 4/2021). Cuốn sách gồm ba phần:

Phần thứ nhất: Đại đoàn kết toàn dân tộc - Sức mạnh nội sinh, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: gồm bài viết tổng quan và 4 bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

 Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nghi thức bấm nút ra mắt và phát hành bản điện tử cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng 


Phần thứ hai:
Phát huy vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: tuyển chọn 36 bài nói, bài viết, bài phát biểu, thư, trả lời phỏng vấn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (10 bài), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (4 bài), Hội Nông dân Việt Nam (4 bài), Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và thanh niên, sinh viên, thiếu niên, nhi đồng (11 bài), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (4 bài), Hội Cựu Chiến binh Việt Nam (3 bài).

Phần thứ ba: Phát huy vai trò của các tầng lớp nhân dân, các địa phương, đóng góp nhiều hơn nữa cho công cuộc đổi mới đất nước: gồm 34 bài nói, bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn, thư, lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với các tầng lớp nhân dân, trong các chuyến thăm và làm việc tại cơ sở.

Quan điểm về đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Dù ở cương vị Bí thư Thành ủy hay lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng đều trăn trở, chăm lo cho việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì theo đồng chí: “đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”1, “là cội nguồn sức mạnh, là giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ”2. Đánh giá vị trí, vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như vậy có thể nói là rất cao, rất sâu sắc và toàn diện.

Theo Tổng Bí thư, “Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh, trước những bước ngoặt lớn của lịch sử với mục tiêu lớn lao của đất nước, nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang”3.

Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là một sách lược chính trị có tính nhất thời, mà là một đường lối chiến lược, xuyên suốt, nhất quán trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước được thống nhất, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi lớn lao, cơ sở của đại đoàn kết toàn dân tộc cũng không còn nguyên như thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Đại hội VI của Đảng năm 1986 mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, tạo động lực và sức sống mới cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được coi là cơ sở trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) thông qua, nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: một là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; hai là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

Đại hội VIII (tháng 6/1996) một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của Nhân dân trong quá trình hình thành và thực hiện đường lối đổi mới mới của Đảng. Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. Đến Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta chỉ rõ nhiệm vụ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội, coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XI (tháng 1/2011) khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.  Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đại hội XII (tháng 1/2016) nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đại hội XIII của Đảng (tháng 1/2021) đã bổ sung phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, đồng thời tiếp tục khẳng định “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân”. Nhân dân có “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Theo Tổng Bí thư, “từ chỗ chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức và lý luận đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những “xơ cứng” đến ngày càng cởi mở hơn”4.

Xưa nay, chúng ta chỉ nói “Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Tuy nhiên, với đồng chí Nguyễn Phú Trọng thì nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc còn “là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm tương đồng”5. Đây là bước phát triển mới quan trọng về tư duy lý luận của Tổng Bí thư.

Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ được nhìn nhận trong mối quan hệ kết cấu giai cấp, mà còn được mở rộng trong quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân, giữa các tầng lớp, cộng đồng dân tộc, tôn giáo, đồng bào trong nước và ở nước ngoài, giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

Theo Tổng Bí thư, trong bối cảnh tình hình hiện nay, để quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải dựa trên “mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, phấn đấu đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao làm điểm tương đồng, để động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, huy động mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ, sự đóng góp của nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là mục tiêu lớn nhất, nếu biết khơi dậy đúng cách sẽ có sức cuốn hút, lay động lòng người, là lời hiệu triệu toàn dân, nhân lên lòng tự hào, tự tôn, ý chí của cả dân tộc”6.

Bên cạnh đó còn phải kết hợp đại đoàn kết toàn dân tộc với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ thật sự của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng những cơ chế phù hợp, khả thi. Lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của mọi chiến lược phát triển, tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Giải quyết đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ trong xã hội, nhất là quan hệ về lợi ích giữa các thành viên trong xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp; linh hoạt trong xử lý hài hòa các mối quan hệ: dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, chiến lược và sách lược, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân và cộng đồng trong điều kiện mới, đồng thời quan tâm đến những khó khăn, những đối tượng yếu thế trong xã hội. Xóa bỏ mặc cảm, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai; chấp nhận và tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Tổ quốc là máu thịt, là nguồn cội của tất cả “con Lạc, cháu Hồng”, luôn luôn mở rộng vòng tay với mọi người con đất Việt thật tâm mong muốn đóng góp công sức, trí tuệ vào gánh vác việc nước7.

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là cơ sở, hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đó cũng là những bài học lớn được Tổng Bí thư đúc rút từ thực tiễn lịch sử xây dựng, lãnh đạo và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta.

Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời gian tới, Tổng Bí thư yêu cầu tập trung thực hiện 6 nhiệm vụ cơ bản:

Thứ nhất, giữ vững vai trò tiên phong, hạt nhân lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ mới.

Thứ hai, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm huy động mọi nguồn lực, phát huy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, sức sáng tạo của các giai tầng xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng thật sự đại diện và bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, nguồn lực, động lực chủ yếu, là mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Thứ năm, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng có năng lực, uy tín, tâm huyết, trách nhiệm, hết lòng vì công việc chung.

Vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới

Hơn 90 năm qua, tổ chức Mặt trận đã góp phần to lớn đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và trở thành hình ảnh tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, Mặt trận các cấp phải thật sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, là nơi mọi người có thể nói lên tiếng nói, nguyện vọng của mình, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc8. Muốn vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần “hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư”, đi sâu, đi sát vào các tầng lớp nhân dân, tìm hiểu nhu cầu của Nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tham gia giám sát và phản biện xã hội.

Chỉ có nắm được nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân mới có thể đại diện và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải chú trọng đến tính thực chất, có trọng tâm, trọng điểm9

Theo Tổng Bí thư, “muốn người dân tin yêu hơn, hỗ trợ, giúp đỡ Mặt trận nhiều hơn thì mỗi cán bộ Mặt trận cần tích cực gần dân sát dân, gương mẫu, đi trước, đi đầu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hướng dẫn nhân dân trong công việc của cộng đồng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ, không sợ khó, sợ khổ, bởi những gì chúng ta làm, cống hiến sẽ được người dân ghi nhận”10. Tổng Bí thư nhắc nhở: “Cán bộ Mặt trận phải luôn luôn ghi nhớ rằng, nhân dân chỉ nghe theo, tin theo mình khi nhân dân thật sự tin tưởng mình, khi cán bộ Mặt trận thật sự là những tấm gương thuyết phục nhất. Do đó, mỗi cán bộ Mặt trận phải thường xuyên rèn luyện mình, tu dưỡng đạo đức, phải trở thành những tấm gương sáng để dân mến, dân thương, dân tôn trọng và dân được nhờ”11.

Tiêu chuẩn cán bộ Mặt trận các cấp, theo Tổng Bí thư, phải là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, tâm huyết với sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc, có năng lực, uy tín, hoàn thành tốt công tác dân vận, tập hợp, vận động Nhân dân. Cán bộ Mặt trận phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Đặc biệt, cán bộ Mặt trận phải là người có bản lĩnh, thể hiện ở 6 dám: “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì lợi ích quốc gia - dân tộc”12.

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 16/8/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra 5 nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay:

Một là, tiếp tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết, kiên trì bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đây là một trong những nhiệm vụ bao trùm, quan trọng hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Hai là, phát huy sức mạnh sáng tạo to lớn của các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện tốt hơn nữa vai trò nòng cốt trong việc chủ trì hiệp thương, phối hợp với các tổ chức thành viên và các cấp chính quyền động viên, phát huy tốt hơn nữa vai trò đoàn kết các giai tầng, nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng và lợi ích thiết thực của mỗi tầng lớp nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi và vận động, lôi cuốn để Nhân dân tham gia mạnh mẽ vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động; phát huy mọi nguồn lực, khả năng sáng tạo, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước.

Ba là, phát huy mạnh hơn nữa vai trò tiên phong trong việc bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân; tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; làm tốt, có hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy, làm tốt vai trò làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ.

Bốn là, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, kiện toàn, đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, sâu sát với dân, thật sự thiết thực và hiệu quả.

Năm là, tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan với hoạt động của Mặt trận13.

Đây là những định hướng lớn, có giá trị lý luận và ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian tới, đòi hỏi phải tập trung nghiên cứu, đề ra những giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện có hiệu quả.

Cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ đúc kết những quan điểm cốt lõi trong đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, mà còn thể hiện nhiều quan điểm mới của Tổng Bí thư. Những quan điểm đó đã tiếp thêm sức sống mới, động lực mới, góp phần hoàn thiện, phát triển hệ thống lý luận của Đảng ta về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hiện nay.

Cuốn sách là cẩm nang quý cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là cán bộ Mặt trận nghiên cứu, học tập, tìm hiểu về đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để vận dụng linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả vào hoạt động thực tiễn, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Chú thích:

1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13. Nguyễn Phú Trọng: Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 15, 21, 17, 25, 21, 35, 35-36, 47, 46, 187, 50, 50, 91-98.

Chu Văn Khánh - Thạc sĩ, Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và

Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều