Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Đảng trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

(Mặt trận) - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Đánh giá về sự kiện lịch sử trọng đại này, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976) khẳng định: Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta”1; mà “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng”2.

11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, xe tăng của quân giải phóng húc đổ cánh cổng dinh tổng thống ngụy (nay là Dinh Thống Nhất). - Ảnh Tư liệu

Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đó là:

Thứ nhất, phán đoán sớm, nhận định đúng tình hình địch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị chiến dịch để giành thắng lợi trọn vẹn.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam xem việc nắm chắc địch và phán đoán đúng ý đồ của địch là yêu cầu hàng đầu, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.  Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên - Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan dã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế.

Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”3. Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm”4.

Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã nắm vững lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược sắc bén, sáng tạo với tinh thần quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong một thời gian ngắn nhất, phát huy truyền thống quân sự độc đáo, sáng tạo của dân tộc, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi, đã thực hiện thành công lối đánh thần tốc, táo bạo, bất ngờ.

Để bảo đảm thắng lợi lớn và nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu Quân đội ta đã giải quyết một loại các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch.

Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược Trường Sơn lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần 1.000 km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155 mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, ngòi lớn nhỏ, lại phải vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân.

Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một ý chí, quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.

Thứ hai, lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược sắc bén, tập trung lực lượng, phương tiện thực hiện tiến công bất ngờ, giành thắng lợi trong thời gian ngắn.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, vấn đề chỉ đạo tập trung lực lượng, phương tiện vào thời cơ quan trọng, thời điểm quyết định, bất ngờ tiến công vào nơi sơ hở hiểm yếu của địch giành thắng lợi luôn là những yếu tố quyết định thành bại của mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ta đã thực hiện được những vấn đề cốt yếu ấy.

Để đập tan tuyến phòng ngự kiên cố vòng ngoài, tiêu hao nhiều sinh lực và thu hút, giam chân một bộ phận lực lượng của đối phương khi các mũi tiến công của ta đánh vào trung tâm thành phố Sài Gòn, Gia Định; chúng ta đã có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, tổ chức sử dụng một lực lượng binh chủng hợp thành lớn, phù hợp gồm 5 quân đoàn chủ lực chia thành 5 mũi tiến thẳng vào Sài Gòn - Gia Định, nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch.

Với việc sử dụng lực lượng tập trung hiệp đồng quân, binh chủng và sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, ta đã tạo sức mạnh tổng hợp, ưu thế hơn địch. Để phát huy tối đa ưu thế này, các lực lượng của ta tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch và hành động chiến đấu, tạo yếu tố bất ngờ cho tới khi nổ súng đồng loạt tiến cống vào trung tâm Sài Gòn - Gia Định. Nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn, quân ta đã nhanh chóng phá vỡ được tuyến phòng ngự cơ bản của địch, đánh chiếm các căn cứ quan trọng là trung tâm đầu não của địch. Bằng các đòn tiến công mạnh mẽ, quân giải phóng cùng bộ đội địa phương và nhân dân ta đã phá tan hệ thống phòng ngự kiên cố, giáng một đòn chí mạng vào quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam vào trưa ngày 30/4/1975.

Thứ ba, nét nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy.

Đó là sự kết hợp giữa những đòn tiến công quân sự bằng các trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của bộ đội chủ lực đánh thẳng vào các đô thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp chặt chẽ giữa quân sự với sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng cách mạng, đập tan bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, ngụy quyền ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ.

Để chỉ đạo các lực lượng đẩy nhanh tiến công, trong Điện gửi vào chiến trường 18 giờ 00 ngày 27/3/1975, Bộ Chính trị đã chỉ thị: “Phải nhanh chóng phát động quần chúng vũ trang nổi dậy, đập tan các lực lượng kìm kẹp ở cơ sở, chiếm lĩnh các công sở... và vận động binh sĩ địch bỏ súng đầu hàng, làm tan rã các đơn vị quân ngụy”5. Sự nổi dậy mạnh mẽ của đông đảo Nhân dân trên các địa bàn từ nông thôn đến thành thị đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực tập trung lực lượng vào mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công, nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch. Lực lượng du kích đã cùng Nhân dân bao vây, bức hàng, vận động địch ra trình diện, giữ trật tự an toàn vùng mới giải phóng, bảo vệ các nhà máy, công sở, không để địch phá hoại...

Để chuẩn bị cho giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Trong Điện gửi Trung ương Cục miền Nam, 15 giờ 30 ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị chỉ thị: “Sẵn sàng phát động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tiến công của quân đội. Sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động”6.

Thứ tư, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi trọn vẹn.

Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá, so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ chiến lược để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trước thời cơ đó, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương nhận định: “Nắm chắc thời cơ chiến lược mới tranh thủ thời gian cao độ nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không kịp dự kiến, không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”7.

Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sài Gòn - Gia Định là hướng tiến công chiến lược chủ yếu và cũng là mục tiêu chiến lược cuối cùng của ta. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào nội đô các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra, khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Đó là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả to lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng, 5 cánh quân chủ lực hùng mạnh của ta tiến hành tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định cùng với sự phối hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, đã đập tan sự kháng cự của địch, buộc nội các chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đúng 11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi hoàn toàn.

Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, nhưng chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vẫn còn vang vọng mãi... đó là những minh chứng lịch sử sống động về một trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam đã đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược Mỹ, hùng mạnh.

Ký ức về giai đoạn lịch sử đó nhắc nhở và giúp chúng ta hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do, của khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước. Những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo sắc bén của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là cơ sở để xây dựng niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sắc bén của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Bởi vậy, đòi hỏi phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh có sức cơ động cao; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”8. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu phát triển lý luận về nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện tác chiến mới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; không ngừng “nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”9.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, 472.

2.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, 484.

3. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25/12/1974.

4. Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18/12/1974 đến ngày 8/1/1975).

5.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2004, tr.90.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2004, tr.167.

7. Đại tướng Hoàng Văn Thái - Những năm tháng quyết định, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1990, tr.210.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.156-157.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.159.

Bế Xuân Trường - Thượng tướng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng,

nguyên Uỷ viên Quân uỷ Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng,

Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều