Kiểm soát quyền lực nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn Việt Nam hiện nay

(Mặt trận) - Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng và đặc biệt quan tâm đến việc trao quyền lực và kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã tiếp tục nhấn mạnh đến kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này, tác giả làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Một số vấn đề lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước

Quyền lực là một khái niệm phức tạp, vì thế có nhiều cách hiểu khác nhau. Quyền lực ở khía cạnh khoa học pháp lý được hiểu với ý nghĩa là “thẩm quyền”, “quyền lợi” của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội).

Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn về các “khả năng hành động, gây ảnh hưởng” cả về thể chất lẫn tinh thần của một người, một nhóm người. Việc sử dụng sức mạnh để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo cả ý nghĩa tích cực lẫn tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng.

Trong Từ điển Tiếng Việt, “quyền lực là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”1. Khái niệm này, về cơ bản đã đồng nhất quyền lực với quyền lực chính trị. Theo cách hiểu chung nhất, “quyền lực là khả năng nhờ đó, người này có thể buộc người khác phải phục tùng”2. Với cách hiểu này, quyền lực không tồn tại một cách chung chung mà luôn tồn tại trong những mối quan hệ quyền lực cụ thể.

 Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết số 96/2023/QH15 về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (Ảnh minh họa)

Trong quan hệ quyền lực, chủ thể này nhờ vào khả năng nào đó của mình có thể buộc chủ thể khác phải phục tùng mình. Bất cứ cá nhân nào trong xã hội cũng đều tham gia vào những mối quan hệ quyền lực nhất định. Một cá nhân có thể là chủ thể quyền lực trong quan hệ này, nhưng đồng thời lại là đối tượng của quyền lực trong quan hệ khác.

Đặc trưng quan trọng nhất của quyền lực đó chính là sự tha hóa của quyền lực. Quyền lực có xu hướng tha hóa, chính sự tha hóa của quyền lực dẫn đến quyền lực dễ bị sử dụng vào những mục đích tư lợi của con người. Sự tha hóa của quyền lực lại có quan hệ với lòng tham và sự tư lợi của con người, bản tính tham của con người. Do vậy, hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, của thể chế, công tác phòng, chống tham nhũng cũng chính là câu chuyện ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực và ngăn chặn lòng tham của con người trong việc sử dụng quyền lực.

Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm soát được hiểu là kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định3. Theo nghĩa từ ngữ, có thể suy ra kiểm soát quyền lực là việc xem xét để phát hiện ngăn chặn sai sót của các chủ thể trong thực hiện, thực thi hoạt động, nhiệm vụ ở các cấp quản lý. Kiểm soát quyền lực không chỉ gồm việc phát hiện và xử lý sai phạm mà còn bao hàm cả việc phòng ngừa khả năng sai phạm có thể xảy ra trong quá trình các chủ thể thực hiện, thực thi hoạt động, nhiệm vụ.

Vấn đề kiểm soát quyền lực luôn luôn tồn tại trong hệ thống xã hội nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng. Mỗi chế độ xã hội có nhà nước đều tồn tại quan hệ kiểm soát quyền lực khác nhau với vị trí của các chủ thể khác nhau. Kiểm soát quyền lực không phải chuyện riêng của bất kỳ quốc gia hay thể chế chính trị nào, ngay trong mỗi quốc gia, kiểm soát quyền lực không thể là độc quyền của lực lượng lãnh đạo.

Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm khắc phục sự tha hóa quyền lực, từ đó đưa quyền lực nhà nước trở về đúng nghĩa của nó là quyền lực của Nhân dân, quyền lực thực hiện chức năng quản lý xã hội. Ngày nay, vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước là phương tiện để: (1) Bảo đảm cho quyền lực nhà nước sử dụng đúng chức năng, nhiệm vụ, tránh lạm dụng, lợi dụng quyền lực nhằm mục đích khác; (2) Giúp hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực và phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực; (3) Bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Với mục đích và vai trò như trên, có thể thấy, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là toàn bộ những phương tiện, quy trình, quy định mà dựa vào đó Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực, đảm bảo cho quyền lực thực thi đúng mục đích và đạt được hiệu lực, hiệu quả cao nhất. Vì vậy, quyền lực nhà nước chỉ có thể kiểm soát được khi hình thành các cơ chế và điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm kiểm soát bên ngoài lẫn kiểm soát bên trong quyền lực nhà nước.

Thứ nhất, cơ chế Đảng lãnh đạo kiểm soát quyền lực nhà nước. Vấn đề quan trọng trong cơ chế này là phân công trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý một cách rõ ràng, minh bạch, có hiệu lực, hiệu quả, để Đảng không quyết định thay Nhà nước, để phát huy dân chủ, tập hợp trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận giữa Đảng và Nhà nước, Nhân dân đối với những quyết định trọng đại của đất nước. Dựa trên sự phân công trách nhiệm rõ ràng đó, Đảng thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước và phát huy vai trò của Nhà nước.

Thứ hai, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước - đối với Nhà nước và đối với quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và cầm quyền.

Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức quyền lực nhà nước (bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong mỗi quyền; giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; và giữa quyền lực nhà nước ở trung ương với quyền lực nhà nước ở địa phương). Chỉ trên cơ sở phân công, phối hợp một cách đúng đắn, khoa học, hợp lý và minh bạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; đồng thời, phân cấp, phân quyền giữa quyền lực nhà nước ở trung ương với quyền lực nhà nước ở địa phương một cách phù hợp mới thực hiện và vận hành cơ chế này hiệu quả.

Thứ tư, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo luật định4. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực độc lập, chuyên trách có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp.

Vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước có ý nghĩa quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Sự cần thiết và quan điểm tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Một là, nhu cầu của chủ thể quyền lực nhà nước luôn muốn đặt quyền lực nhà nước dưới sự kiểm soát của mình. Quyền lực nhà nước là quyền lực công, hình thành từ xã hội, để phục vụ lợi ích của xã hội. Chủ thể của quyền lực nhà nước ủy quyền cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thay mặt họ thực thi quyền lực trên phạm vi toàn xã hội. Vì vậy, chủ thể của quyền lực nhà nước cần có những thông tin cần thiết về việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước để bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng với mục đích mà các chủ thể đề ra, đáp ứng được những lợi ích của mình.

Hai là, quyền lực nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện luôn có xu hướng bị tha hóa. Quyền lực nhà nước thường bị các chủ thể nhận ủy quyền (những chủ thể trưc tiếp thực hiện quyền lực nhà nước) lạm dụng, lợi dụng vì những mục đích không còn như trạng thái nguyên thủy khi mà quyền lực nhà nước được ủy quyền từ phía chủ thể của nó. Sự tha hóa quyền lực nhà nước có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: do cơ chế hình thành và vận hành quyền lực nhà nước; chủ thể, mục đích và cách thức nắm giữ quyền lực nhà nước; đối tượng của quyền lực; cách thức thực hiện và bảo đảm quyền lực; sự kiểm soát quyền lực… Do đó, cần phải kiểm soát để quyền lực nhà nước không bị tha hóa, không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích.

Ba là, chủ thể nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước có nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước để giảm nhẹ hoặc kiểm soát những rủi ro và giúp cho các hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của họ hiệu quả hơn. Mặc dù, các chủ thể được ủy quyền thường không muốn bị kiểm soát, nhưng ở một phương diện khác, họ cũng muốn được kiểm soát để chứng tỏ quyền lực nhà nước đã được tổ chức và thực hiện đúng với mục đích của chủ thể ủy quyền.

Bốn là, việc kiểm soát quyền lực nhà nước còn để quyền lực nhà nước được tổ chức, thực hiện ngày càng khoa học, hiệu quả hơn. Thông qua việc kiểm soát quyền lực nhà nước trên thực tế, con người mới kiểm nghiệm được việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đã khoa học và hiệu quả chưa, cần phải chỉnh sửa những gì để quyền lực nhà nước thực sự là “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.

Trong quá trình dân chủ hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước vừa cơ bản, lại vừa cấp thiết. Cơ bản vì đó là yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước và tính hiệu quả của nó là một trong những nội dung cốt lõi của nhà nước pháp quyền, là phương tiện để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân. Cấp thiết vì việc lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng của không ít cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đang là vấn nạn, là nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ, vi phạm nghiêm trọng quyền tự do, dân chủ của người dân. Vì sao phải nhốt quyền lực trong lồng thể chế và pháp luật là một câu hỏi cần nghiên cứu thấu đáo để có hệ giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài mang tầm chiến lược.

Việc Đảng ta dành sự quan tâm sâu sắc đến nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu, với đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, với những vấn đề “gốc rễ” của nó. Xuất phát điểm cơ bản và chủ yếu nhất của vấn đề chính là vì tác hại, sự nguy hiểm khôn lường của việc “thả nổi quyền lực”, không kiểm soát được quyền lực nhà nước và sự “tha hóa quyền lực” trong thực thi nhiệm vụ, công vụ.

Khi quyền lực nhà nước không được kiểm soát chặt chẽ, nó sẽ là tác nhân chính làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực, từ đó làm tha hóa, thoái hóa, biến chất cả bộ máy. Đó cũng chính là nguyên nhân lớn nhất khiến đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ, quốc gia không thể hưng thịnh và không có đủ sức mạnh để tự vệ5.

Khi quyền lực nhà nước không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Điều này rất dễ xảy ra ở người chủ trì, người đứng đầu tập thể lãnh đạo. Với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiên lượng, cảnh báo nguy cơ những người cán bộ chủ trì dễ mắc phải “căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực nhà nước, lại phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất,…

Quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, phải có cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước được coi như tiêu chí đánh giá tính chất dân chủ của một chế độ chính trị, mức độ thành thục trong việc sử dụng quyền lực và trình độ tổ chức và hoạt động của một hệ thống chính trị. Nói đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cần làm rõ cơ chế kiểm soát quyền lực cứng và cơ chế kiểm soát quyền lực mềm.

Cơ chế kiểm soát quyền lực cứng là một chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý, các thiết chế liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước đối với những người thực thi quyền lực, nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước vận hành theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Cơ chế kiểm soát quyền lực mềm là cơ chế kiểm soát quyền lực sử dụng các cơ chế ngoài pháp lý đối với những người thực thi quyền lực. Quyền lực mềm thực hiện thông qua sự hấp dẫn, thuyết phục, không cưỡng bức, ép buộc, kiểm soát bằng truyền thông và dư luận xã hội.

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới chỉ rõ: “Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm; quyền lực đến đâu, trách nhiệm đến đó; quyền lực càng cao, trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý”.

Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở Việt Nam hiện nay cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân về mục tiêu của việc thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu khách quan, khoa học, là xu thế tất yếu; kiểm soát không làm cho nhà nước yếu đi, mà ngược lại, kiểm soát quyền lực nhà nước còn có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật, lạm quyền, xâm phạm quyền con người, quyền công dân.

Việc nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta phải bắt nguồn từ nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc củng cố, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước. Việc nhận thức của đội ngũ cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội khác, của các tầng lớp nhân dân về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện cơ chế này.

Thứ hai, bảo đảm sự phân công khoa học, hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn, rành mạch và cụ thể giữa các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp mới có cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, cần thực hiện sự phân công quyền lực nhà nước việc thật rõ ràng, chính xác, tạo cơ sở cho bộ phận quyền lực này có thể kiểm soát bộ phận quyền lực khác. Thực hiện sự phân công quyền lực nhà nước rõ ràng còn đảm bảo cho Nhân dân có căn cứ nhận xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền; đồng thời, khắc phục sự trùng lặp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ ràng trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.

Thứ ba, quán triệt đầy đủ và khẩn trương cụ thể hóa nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Hệ thống pháp luật liên quan quan đến tổ chức bộ máy, đến kiểm soát quyền lực nhà nước phải quy định chi tiết, cụ thể hơn nguyên tắc này thông qua việc xác định chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nước và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện quyền lực nhà nước theo hướng “phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 cần phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện liên quan đến việc thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó đặc biệt chú ý đến thể chế bảo vệ Hiến pháp.

Thứ tư, bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần thực hiện hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Yêu cầu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với cơ quan nhà nước phải được quy định đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc quy định các biện pháp xử lý nghiêm khắc sẽ có tác dụng làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước thực sự có hiệu quả. Có các biện pháp chế tài đủ mạnh để xử lý các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực nhà nước không đúng, không hiệu quả, xâm hại đến quyền là lợi ích của Nhân dân, Nhà nước và xã hội. Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ năm, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, vai trò của Đảng vô cùng quan trọng quyết định định hướng phát triển của Nhà nước. Vai trò đó đã được hiến định, vì vậy, muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đòi hỏi có sự đổi mới phương thức cầm quyền và lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ của Đảng, hướng mạnh đến các giá trị pháp quyền. Để đảm bảo được vai trò lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền thì hơn lúc nào hết, Đảng phải lãnh đạo và cầm quyền theo pháp luật. Đảng càng tuân thủ luật pháp thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng được củng cố vững chắc.v

Chú thích:

1.  Viện Ngôn ngữ (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

2.  Nguyễn Minh Đoan, Bùi Thị Đào, Trần Ngọc Định, Trần Thị Hiền, Lê Vương Long, Nguyễn Văn Năm, Bùi Xuân Phái (2009), Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 9.

3.   Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.937.

4.  Khoản 2 Điều 119, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.

5.  Xem: Vũ Ngọc Hoàng: “Quyền lực nhất thiết phải được kiểm soát”, Tạp chí Cộng sản, số 890 (tháng 12/2016).

Vũ Thị Thu Quyên - Tiến sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều