Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới

Quá trình nhận thức và đổi mới tư duy lý luận của Đảng về nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hơn 30 năm đổi mới dựa trên cơ sở quy luật dựng nước phải đi đôi với giữ nước, là một quá trình xuất phát từ thực tiễn của đất nước qua các giai đoạn, các sự kiện, các mốc lịch sử quan trọng, từ bối cảnh khu vực và quốc tế và từ yêu cầu, khả năng về quốc phòng, an ninh và sự phát triển kinh tế. Đây là một quá trình nhận thức từng bước, có sự điều chỉnh phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước, đổi mới và hội nhập quốc tế.
 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đến thăm, chúc Tết Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân nhân dịp đón Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, ngày 30-1-2019_Ảnh: TTXVN

Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận thức và bổ sung hoàn chỉnh về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gắn với xây dựng chủ nghĩa xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế, đổi mới, phát triển; đó cũng là một quá trình bổ sung cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn trên thế giới, khu vực và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Về quá trình đổi mới tư duy đó có thể khái quát trên một số lĩnh vực cơ bản sau:

Một là, nhận thức đúng, đủ về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và về mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược này ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn.

Trong quá trình đổi mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc luôn được Đảng xác định có tầm quan trọng đặc biệt, là tiền đề và cơ sở hỗ trợ trực tiếp cho nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng đất nước. Hai nhiệm vụ này không thể tách rời bởi có bảo vệ vững chắc Tổ quốc trước mọi sự đe dọa, tấn công từ bên ngoài thì mới tạo được môi trường thuận lợi, hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước. Ngược lại, càng xây dựng đất nước có hiệu quả, vững mạnh thì càng tạo điều kiện về sức mạnh vật chất cho bảo vệ Tổ quốc. Hai nhiệm vụ trên phải đồng thời tiến hành vì nó là tiền đề, điều kiện của nhau, không thể tách rời.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phải đặc biệt chú trọng tới việc nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặt trong các mối quan hệ lớn, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa trong một tổng thể thống nhất. Đây là biểu hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thể hiện năng lực nắm chắc quy luật về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và vận dụng sáng tạo vào đặc điểm, truyền thống dân tộc, nhiệm vụ cách mạng của đất nước trong bối cảnh mới.

Hai là, nhận thức mới về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và thực trạng đất nước.

Đảng có nhận thức về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc ngày càng sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn qua từng thời kỳ. Nếu như trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh 1991), Đảng ta nhấn mạnh: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa; sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(1); thì đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (năm 2014), Đảng ta đã xác định rõ nét, đầy đủ hơn về mục tiêu chung bảo vệ Tổ quốc, đó là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; cảnh giác, phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng, bạo loạn, khủng bố; không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước, tăng cường hợp tác kinh tế với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, giải quyết cơ bản các vấn đề biên giới trên bộ, các vấn đề trên biển với các nước láng giềng.

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã xác định đầy đủ với việc bổ sung nhiều nội dung, như: Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và các khu vực nhạy cảm trên biên giới, đất liền, biển đảo; xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý, điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh; xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó chú trọng đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, phù hợp với yêu cầu tác chiến mới.

Ba là, nhận thức về quan điểm và phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc ngày càng toàn diện, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ đất nước.

 

Xe tăng khai hỏa diễn tập tiêu diệt các mục tiêu địch trên chiến trường_Ảnh: TTXVN

Về quan điểm, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã cụ thể hóa quan điểm, phương châm của Đảng ta là phải gắn mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc... không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới; ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài, giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng.

Về phương châm chỉ đạo, Nghị quyết xác định 3 phương châm cần nắm vững trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: Kiên định các mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, đi đôi với sự vận dụng linh hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và dư luận quốc tế, kiên trì giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; đối với nội bộ, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm, cô lập các phần tử chống đối; thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm mống gây mất an ninh, không để bị động, bất ngờ. Quan điểm của Đảng là cần phải chủ động bảo vệ đất nước từ xa, từ sớm, từ lúc đất nước chưa nguy, có đối sách phù hợp với từng đối tượng theo từng tình huống cụ thể.

Bốn là, nhận thức về sức mạnh tổng hợp và lực lượng bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ hơn.

Đó chính là sức mạnh tổng hợp của quốc gia cả về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, quốc phòng, an ninh, của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy sức mạnh của lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Đó là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; sức mạnh của “bàn tay hữu hình” và sức mạnh của “bàn tay vô hình”... Tất cả các nguồn lực đó được kết tinh lại, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự đồng lòng, thống nhất về quyết tâm và ý chí của toàn dân; trong đó, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần làm cốt lõi; đại đoàn kết dân tộc làm động lực chủ yếu, thế trận lòng dân làm nền tảng.

Năm là, nhận thức về phương thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng có những nội dung bổ sung, phát triển.

Đảng nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và phi vũ trang; kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ, bảo vệ tốt để có điều kiện xây dựng tốt. Đấu tranh phi vũ trang được Đảng nhận thức có vai trò ngày càng quan trọng trong phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm đối phó có hiệu quả các phương thức, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Sáu là, nhận thức ngày càng hoàn thiện về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với xây dựng nền an ninh nhân dân, gắn quốc phòng với an ninh, đấu tranh quốc phòng gắn với bảo vệ an ninh.

Đây là hai lĩnh vực, hai nhiệm vụ có quan hệ mật thiết với nhau. Theo đó, Đảng chủ trương phải xây dựng nền quốc phòng theo phương châm toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, mang tính tự vệ và ngày càng hiện đại; xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn diện, lấy tiềm lực chính trị, tinh thần làm cơ sở, quyết định hiệu quả việc sử dụng các tiềm lực khác; phát triển công nghiệp quốc phòng trở thành một bộ phận quan trọng của tiềm lực quốc phòng; phát triển khoa học - công nghệ quân sự; coi trọng xây dựng tiềm lực kinh tế mà cốt lõi là xây dựng phát triển kinh tế nhanh, bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ về kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, việc xây dựng thế trận lòng dân được coi là cơ sở quan trọng; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc là trọng tâm.

 

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 335 tham xây dựng nông thôn mới tại xã Hùng Sơn, huyện Anh Sơn (tỉnh Nghệ An)_Ảnh: baoquankhu4.com.vn

Nhận thức về an ninh và an ninh nhân dân ngày càng hoàn thiện khi Đảng đưa ra khái niệm về an ninh tổng hợp, bao gồm an ninh chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa; kết hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân với xây dựng nền an ninh nhân dân trong việc xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc ở mỗi địa bàn và trên cả nước. Có bảo đảm quốc phòng vững chắc thì mới duy trì được an ninh có hiệu quả, và ngược lại, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện cho quốc phòng hoàn thành trọng trách được giao phó.

Bảy là, nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Đó là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, trở thành nguyên tắc có ý nghĩa sống còn, bảo đảm cho quân đội luôn nhận được và thực hiện trực tiếp, đầy đủ, toàn diện sự lãnh đạo của Đảng về những vấn đề liên quan đến sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ đất nước. Đây là sự phát triển về tư duy và nhận thức sự lãnh đạo của Đảng. Trước đó, Đảng xác định vai trò lãnh đạo đối với quân đội là: trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt.

Tám là, nhận thức về đối tác, đối tượng có bước phát triển mới, có cách nhìn biện chứng.

Việc xác định đối tác, đối tượng là vấn đề rất cơ bản, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến chính sách đối nội, đối ngoại của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX đã nhấn mạnh: Nhằm phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn mới và thống nhất về đối tượng, đối tác theo nguyên tắc: những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Theo đó, đối tượng không chỉ là lực lượng gây chiến tranh, bạo loạn, lật đổ mà còn là kẻ xâm phạm lợi ích chủ quyền quốc gia dân tộc bằng phương thức vũ trang hoặc phi vũ trang.

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới là quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, gắn chặt một cách hữu cơ với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đối ngoại và giữ vững an ninh, trật tự của đất nước. Sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc dựa trên cơ sở thực tiễn và bám sát tình hình thực tế của đất nước, của khu vực và thế giới. Chính từ những cơ sở thực tiễn đó lại gợi mở, định dướng cho sự tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thời kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế.

Qua từng kỳ Đại hội, Đảng ta đã từng bước nhận thức và bổ sung hoàn chỉnh hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gắn với xây dựng chủ nghĩa xã hội trong quá trình hội nhập, đổi mới, phát triển; nhờ đó, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực; tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Trong khi đó, tình hình thế giới, khu vực đang có những biến động khó lường. Điều đó đòi hỏi nhận thức và tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cũng như việc triển khai thực hiện cần tiếp tục hoàn thiện, phát triển thời gian tới.

------------------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 142

Theo TS. TRẦN QUỐC DƯƠNG/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều