Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của các cơ quan tư pháp nói chung, của Viện Kiểm sát nhân dân nói riêng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Viện Kiểm sát nhân dân đã triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm, nhất là tội phạm tham nhũng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và đại biểu thăm phòng truyền thống về ngành kiểm sát nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập ngành kiểm sát nhân dân (1960 - 2020)_Ảnh: TTXVN

Kể từ khi được thành lập (năm 1960) đến nay, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) luôn là một thiết chế hiến định(1), một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật (trước đây), và nay là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, theo quy định của pháp luật(2), VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ; và trực tiếp điều tra, truy tố tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra (CQĐT), VKSND, tòa án nhân dân (TAND), cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Để thực hiện vai trò, trách nhiệm này, ở VKSND các cấp thành lập các đơn vị hoặc phân công cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ; ở VKSND tối cao thành lập CQĐT để điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và đề ra các yêu cầu, chủ trương về đấu tranh phòng, chống tham  nhũng(3). Đặc biệt, Nghị quyết số 96/2019/QH14, ngày 27-11-2019, của Quốc hội, “Về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án” đã đề ra yêu cầu VKSND phải phối hợp chặt chẽ với các CQĐT, cơ quan thi hành án, cơ quan thanh tra, TAND và Kiểm toán Nhà nước để phòng ngừa, phát hiện và xử lý hiệu quả các tội phạm tham nhũng, nâng tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt đạt trên 60%. Trên cơ sở đó, việc xử lý các tội phạm tham nhũng phải được các cơ quan, trong đó có VKSND nâng cao trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc, kịp thời, nghiêm minh.

Theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và yêu cầu của Đảng, Nhà nước, vai trò của VKSND trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thể hiện thông qua ba phương diện: Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đến việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án tham nhũng, chức vụ; điều tra các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VKSND chủ động phối hợp với các cơ quan để tham mưu cho các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; kiến nghị với cấp có thẩm quyền đề ra các biện pháp khắc phục thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, phòng ngừa tội phạm tham nhũng.

Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Thời gian qua, những kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của các cơ quan tư pháp nói chung, của VKSND nói riêng được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Trong 3 năm 2017 -  2019, toàn ngành kiểm sát đã thụ lý thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra 967 vụ/2.115 bị can về tội tham nhũng, trong đó có 83 vụ án/640 bị can thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (Ban Chỉ đạo) theo dõi, chỉ đạo; phối hợp với tòa án có thẩm quyền đưa ra xét xử 707 vụ/1.662 bị cáo, trong đó có 50 vụ/438 bị cáo thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, với mức án nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, nhưng cũng bảo đảm tính nhân văn, cân nhắc và có sự phân hóa giữa vai trò, trách nhiệm của đối tượng chỉ huy, cầm đầu, chủ mưu với đối tượng đồng phạm, giúp sức, người thừa hành. Đặc biệt, đã phối hợp chặt chẽ cùng cơ quan điều tra phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng, chức vụ đặc biệt lớn với hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng; đối tượng bị khởi tố từng giữ những chức vụ cao trong Đảng và trong bộ máy nhà nước, như vụ án Đinh La Thăng, vụ án Trịnh Xuân Thanh, vụ án AVG(4), vụ án Phan Văn Anh Vũ(5), vụ án đánh bạc xảy ra tại tỉnh Phú Thọ(6); gần đây nhất, khởi tố vụ án để điều tra về tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội... và đang tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra nhiều vụ án tham nhũng khác theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo.

Đại diện Viện kiểm sát thành phố Hà Nội nêu quan điểm tại phiên xét xử sơ thẩm các bị cáo trong vụ án Tổng Công ty Viễn thông MobiFone mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG)_Ảnh: TTXVN 
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Ban cán sự đảng, lãnh đạo VKSND tối cao luôn xác định công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tham nhũng, chức vụ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành trong giai đoạn hiện nay, là trách nhiệm chính trị của ngành trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trên cơ sở đó, đã triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm, nhất là tội phạm tham nhũng, cụ thể như: Ban hành các chỉ thị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm; tăng cường tranh tụng của kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa; chú trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm nghiệp vụ; hoàn thiện hệ thống quy chế nghiệp vụ; thông tư hướng dẫn; các văn bản chỉ đạo, quy chế phối hợp liên ngành; ban hành các chỉ tiêu nghiệp vụ để làm căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ... Đặc biệt, Viện trưởng VKSND tối cao và Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã chủ động rà soát, đánh giá, kiện toàn một bước đội ngũ KSV làm công tác chống tham nhũng, nhất là việc xem xét, bố trí người đứng đầu các đơn vị nghiệp vụ này phải là người có năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh và dám đương đầu đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái đúng. Kết quả, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án tham nhũng những năm qua được nâng cao, đã thực hành quyền công tố, kiểm sát chặt chẽ 100% số vụ án tham nhũng ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

 Để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước giao, lãnh đạo VKSND tối cao đã chỉ đạo thành lập các tổ KSV, trong đó cử các KSV có kinh nghiệm, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh, trách nhiệm tham gia giải quyết các vụ án. Các KSV đã tăng cường trách nhiệm công tố, tham gia sớm hơn và ngay từ khi CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, xác minh các vụ việc, nguồn tin có dấu hiệu tội phạm tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp; chủ động định hướng hoạt động điều tra, 100% số vụ án đều có yêu cầu điều tra, có vụ ban hành nhiều yêu cầu điều tra nhằm làm rõ hành vi phạm tội và tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; trực tiếp tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định trong giai đoạn điều tra; kịp thời yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn, bắt tạm giam những bị can có vai trò chính, chủ mưu hoặc cấm xuất cảnh các đối tượng liên quan ngay từ giai đoạn xác minh, giải quyết tin báo để ngăn chặn đối tượng bỏ trốn. Lãnh đạo Viện thường xuyên nghe thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ báo cáo tiến độ, kết quả điều tra, những vấn đề khó khăn, vướng mắc để cho ý kiến chỉ đạo kịp thời; chủ động báo cáo Ban Chỉ đạo, phối hợp với Ban Nội chính Trung ương, liên ngành tư pháp Trung ương tổ chức họp bàn, tháo gỡ khó khăn nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án; tăng cường biệt phái KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tại VKSND tối cao xuống địa phương thực hiện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án này. Vì vậy, chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án đáp ứng tốt yêu cầu của Ban Chỉ đạo, giải quyết dứt điểm được nhiều vụ án phức tạp, kéo dài; kịp thời truy tố, xét xử nhiều vụ án lớn, được dư luận xã hội đồng tình, qua đó nâng cao vai trò, vị thế của ngành kiểm sát nhân dân trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm  tham nhũng nói riêng.

Cùng với việc phát hiện, xử lý nghiêm tội phạm về tham nhũng, VKSND các cấp đã cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng xác định việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng là mục tiêu, yêu cầu quan trọng trong giải quyết, xử lý án tham nhũng nên đã chú trọng công tác này. Vai trò, trách nhiệm của VKSND được thể hiện rõ nét và quyết liệt hơn trong thực hiện nhiệm vụ và đã có những kết quả tốt, 100% số vụ án có dấu hiệu gây thất thoát, chiếm đoạt tài sản đều được VKSND đề ra yêu cầu xác minh, thu hồi tài sản. Phối hợp với CQĐT thực hiện các biện pháp ngăn chặn, thu giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của bị can, bị cáo và người liên quan nhằm không để tẩu tán, che dấu, hợp pháp hóa tài sản ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra; kiên quyết yêu cầu CQĐT thay đổi tội danh để làm rõ hành vi chiếm đoạt tài sản(7). Trong giai đoạn truy tố, ngoài việc tiếp tục duy trì lệnh kê biên, phong tỏa tài sản, bảo đảm thu hồi tài sản của giai đoạn điều tra, VKSND đã ban hành lệnh kê biên tài sản theo thẩm quyền, kiến nghị hội đồng xét xử tuyên thu hồi tài sản(8). Viện kiểm sát nhân dân các cấp tích cực phối hợp với CQĐT, TAND, cơ quan thi hành án giải thích, động viên người phạm tội tự nguyện giao nộp lại tài sản đã chiếm đoạt, tự nguyện khắc phục hậu quả thiệt hại đã gây ra, qua đó nâng cao tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng. Kết quả, nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế có tỷ lệ thu hồi tài sản cao(9). Bên cạnh đó, VKSND tối cao đã hoàn thành hồ sơ đề nghị phía nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp về yêu cầu thu hồi tài sản trong một số vụ án tham nhũng, kinh tế lớn.

Về công tác điều tra các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của CQĐT VKSND tối cao, trong 3 năm 2017 - 2019, CQĐT VKSND tối cao đã phát hiện, thụ lý 221 tố giác, kết thúc kiểm tra, xác minh đạt 94,1%, trong đó, khởi tố, điều tra 79 vụ/84 bị can phạm các tội về tham nhũng, kết thúc điều tra đạt 86,1%; tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng đã thu hồi đạt gần 60%. Trong đó, số vụ, việc tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp bị phát hiện hằng năm đều tăng và chiếm tỷ lệ cao so với tổng số án mà CQĐT VKSND tối cao thụ lý (khoảng 70%); số cán bộ có chức danh tư pháp thực hiện hành vi tham nhũng bị bắt quả tang, khẩn cấp, bắt tạm giam tăng, nhiều vụ án được xử lý kịp thời, nghiêm minh, được các cơ quan, dư luận đồng tình(10).

Về công tác phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, một trong những khó khăn về công tác giải quyết án tham nhũng trong thời gian qua là khâu giám định, định giá kết luận về hành vi sai phạm và hậu quả thiệt hại trong các vụ án tham nhũng. Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, Ban cán sự đảng VKSND tối cao chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thành việc xây dựng Thông tư liên tịch số 01/2017, quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định, định giá tài sản trong giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế; tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong nhận thức, áp dụng pháp luật để ban hành văn bản kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung văn bản, hướng dẫn áp dụng pháp luật(11). Vừa qua, VKSND tối cao đã có văn bản kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 41/2017/QH14 và hướng dẫn thống nhất thời điểm xác định hậu quả thiệt hại trong một số loại tội phạm gây thiệt hại về tiền, tài sản của Nhà nước, tổ chức để bảo đảm thu hồi tối đa số tiền bị thất thoát, chiếm đoạt, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức.

Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ của ngành, VKSND tối cao cũng chú trọng tổng hợp những nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm, tội phạm tham nhũng để ban hành kiến nghị với cơ quan của Đảng và Nhà nước có thẩm quyền nhằm khắc phục thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, phòng ngừa tội phạm tham nhũng.

Đạt được những kết quả nêu trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là từ quyết tâm chính trị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo đã lựa chọn những vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, dư luận xã hội quan tâm, có nhiều khó khăn, vướng mắc đưa vào diện theo dõi, để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết bảo đảm nghiêm minh, đúng pháp luật; lựa chọn những khâu yếu, việc khó, có nhiều vướng mắc để chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng, các bộ, ngành liên quan phối hợp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc với quyết tâm cao hơn, quyết liệt hơn.

Cùng với quyết tâm chính trị của Đảng, các cơ quan tư pháp, trong đó ngành kiểm sát nhân dân có nhiều nỗ lực và quyết tâm thực hiện trách nhiệm cao nhất của mình trong việc tham gia giải quyết các vụ án tham nhũng, chức vụ thời gian qua. Vai trò, trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị, viện trưởng VKSND các cấp trong phòng, chống tham nhũng được tăng cường. Viện trưởng VKSND tối cao là thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng thường xuyên đặt ra yêu cầu: Viện trưởng VKSND các cấp, thủ trưởng các đơn vị phải đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu, trực tiếp chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị và trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng; các Phó Viện trưởng VKSND tối cao phụ trách nghiệp vụ phải thường xuyên nghe thủ trưởng các đơn vị, viện trưởng VKSND địa phương báo cáo tiến độ, kết quả giải quyết các vụ án phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, nắm bắt đầy đủ những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo tháo gỡ ngay từ giai đoạn đầu của vụ án, định hướng điều tra đúng, bảo đảm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án. Quan tâm kiện toàn bộ máy và cán bộ đơn vị chuyên trách giải quyết các vụ án tham nhũng, đặc biệt là người đứng đầu, Ban cán sự đảng, lãnh đạo VKSND tối cao đã điều động, luân chuyển cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, trách nhiệm phụ trách các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án tham nhũng, kinh tế; lựa chọn, cử KSV, cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, trình độ, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức tốt tham gia giải quyết án tham nhũng, chức vụ. Chỉ đạo khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng như công tác giải quyết các vụ án tham nhũng lớn thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo. Ban cán sự đảng đánh giá cán bộ, công chức cũng như thành tích cụ thể của họ một cách công tâm, khách quan để xem xét quy hoạch, bổ nhiệm; tạo động lực phấn đấu, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Cơ quan điều tra VKSND tối cao, cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ điều tra các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp, cũng luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo VKSND tối cao; công tác điều tra đạt được kết quả tốt hơn những năm trước về cả số lượng án và chất lượng giải quyết, góp phần răn đe, phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong hoạt động tư pháp.

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của VKSND còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì hầu hết các vụ án tham nhũng, chức vụ là các vụ án truy xét, có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực; xảy ra tại nhiều địa phương và trong một thời gian dài, thậm chí trong nhiều năm mới có thể phát hiện, khởi tố, điều tra; các đối tượng phạm tội đều là người có chức vụ, quyền hạn, có nhiều mối quan hệ, ảnh hưởng, có thủ đoạn phạm tội tinh vi nên việc điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, thu hồi tài sản gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, còn một số cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu vẫn chưa thực sự quyết tâm, chưa vào cuộc quyết liệt nên việc phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng ở một số nơi còn chậm, có lúc chưa bảo đảm chính xác, nghiêm minh, toàn diện. Mặt khác, một số quy định trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất về quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, xác định thiệt hại trong một số vụ án, dẫn đến tiến độ giải quyết vụ án bị chậm trễ. Công tác giám định, định giá tài sản để xác định hậu quả thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, chức vụ thường bị kéo dài thời gian trong khi thời hạn điều tra là theo luật định, dẫn đến khó khăn trong việc xác định hậu quả thiệt hại để xử lý tội phạm tham nhũng; có vụ kết luận giám định chưa chính xác, thiếu sự thống nhất, dù đã được trưng cầu nhiều lần tại các cơ quan, tổ chức giám định khác nhau. Ngoài ra, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết một số vụ án, vụ việc chưa thực sự hiệu quả, việc trao đổi, cung cấp thông tin hồ sơ, tài liệu có trường hợp chưa kịp thời. Sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan tiến hành tố tụng có lúc chưa chặt chẽ, thống nhất; có vụ, việc cơ quan thanh tra chậm chuyển tài liệu kèm theo kiến nghị khởi tố; kết luận thanh tra về sai phạm một số vụ việc chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu, thậm chí một số vụ việc không thể khởi tố vụ án. Đối với các vụ án, vụ việc tham nhũng, chức vụ có yếu tố nước ngoài, việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự còn gặp khó khăn, chậm trễ, do phía nước ngoài chậm hoặc không trả kết quả tương trợ tư pháp mà phía Việt Nam đã yêu cầu nên việc xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa đạt kết quả cao.

Một số bài học kinh nghiệm rút ra

Một là, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng. Ngày 1-2-2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW, “Về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng” do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Sự chỉ đạo, đôn đốc sát sao của Ban Chỉ đạo trong quá trình xử lý các vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp hoặc dư luận xã hội đặc biệt quan tâm là cơ sở quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng và công tác thi hành án, thu hồi tài sản tham nhũng.

Hai là, thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng cho thấy, việc quan tâm kiện toàn về tổ chức bộ máy và lựa chọn, bố trí người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chuyên trách đấu tranh phòng, chống tham nhũng là đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong điều tra, truy tố và xử lý có hiệu quả các vụ án tham nhũng. Đối với ngành kiểm sát, việc kiện toàn, sắp xếp, bố trí cán bộ, KSV làm công tác này thời gian qua được quan tâm và thực hiện mạnh mẽ, thường xuyên đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV làm công tác này phải bảo đảm có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đặc biệt là phải có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp trong sạch, vững vàng.

Ba là, các cơ quan chuyên trách đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các cơ quan có thẩm quyền trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải luôn chủ động và phối hợp chặt chẽ, trong đó VKSND phải tham gia ngay từ đầu, khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Kiểm sát viên làm công tác này phải nắm chắc quy định của pháp luật và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tăng cường trách nhiệm công tố, chủ động, tích cực tham gia các hoạt động điều tra và trực tiếp thực hiện các hoạt động điều tra theo thẩm quyền. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để giải quyết toàn diện, triệt để, đúng pháp luật các vụ án tham nhũng, ngoài việc tập trung điều tra làm rõ, xử lý hành vi phạm tội, phải tập trung làm rõ tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt và áp dụng các biện pháp để thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước. Vì vậy, ngay từ giai đoạn đầu giải quyết vụ án, phải kiên quyết yêu cầu CQĐT áp dụng kịp thời các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp tư pháp theo quy định của pháp luật để ngăn chặn tội phạm bỏ trốn, tẩu tán tài sản gây khó khăn cho công tác điều tra và thu hồi tài sản.

Bốn là, xác định đây là cuộc đấu tranh không chỉ với tội phạm tham nhũng mà còn là vừa phối hợp, vừa đấu tranh với đồng chí, đồng sự, đồng nghiệp của mình, trong thực tế giữa các ngành không chỉ khác nhau về nhận thức, áp dụng pháp luật mà không loại trừ còn khác nhau về động cơ khác trong từng vụ án nên phải vừa thống nhất, vừa đấu tranh, do đó, KSV phải thường xuyên bàn bạc, trao đổi thống nhất với điều tra viên những vấn đề thuộc về vụ án. Viện trưởng VKSND tối cao yêu cầu trong quá trình kiểm sát xử lý tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố, kiểm sát điều tra, truy tố và kiểm sát xét xử, KSV phải biết cân nhắc, có thể chấp nhận những vấn đề nào không quan trọng, không ảnh hưởng đến kết quả điều tra vụ án, nhưng khi có sự khác nhau về những vấn đề thuộc nguyên tắc, những vấn đề có thể làm sai lệch vụ án để dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm thì phải kiên định, không được lay chuyển mà phải thực hiện đầy đủ quyền hạn của KSV trong thực hiện nhiệm vụ. Quá trình giải quyết vụ án phải phân hóa rõ vai trò người cầm đầu, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội vì mục đích vụ lợi, cá nhân cần xử lý nghiêm; đồng thời, có thể xem xét giảm nhẹ hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm có vai trò giúp sức, người thi hành, thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên (bắt buộc  phải thi hành) không có yếu tố vụ lợi mà khai báo thành khẩn, tự nguyện khắc phục hậu quả... Ngoài ra, xem xét không xử lý đối với những người mà tại thời điểm cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ, họ vì lợi ích tập thể dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không vì mục đích tư lợi, cá nhân.

Năm là, việc VKSND tối cao tăng cường ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự trong giải quyết án tham nhũng, nhất là trong việc dẫn độ, cung cấp thông tin, tài liệu chứng minh tội phạm và thu hồi tài sản tham nhũng.

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh với các đại biểu và nữ công chức tiêu biểu của ngành kiểm sát nhân dân_Ảnh: TTXVN 
Tiếp tục đổi mới, tăng cường vai trò của VKSND trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Thứ nhất, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trong giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng.

Đối với người đứng đầu các cấp kiểm sát, phải kiên quyết, kiên định, trách nhiệm, bản lĩnh để bảo đảm kết quả cuối cùng của vụ án. Viện trưởng VKSND các cấp, thủ trưởng các đơn vị phải thường xuyên quán triệt, tổ chức thực hiện đầy đủ, nghiêm túc chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của ngành về công tác phòng, chống tham nhũng và việc thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng. Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ cho cấp dưới, bảo đảm thống nhất về nhận thức, áp dụng pháp luật và nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án về tham nhũng, chức vụ; tăng cường sơ kết, tổng kết thực tiễn để kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắc, thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, chức vụ. Chú trọng công tác phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố các vụ án tham nhũng, chức vụ theo chức năng, nhiệm vụ được giao; kịp thời nắm bắt, tiếp thu và thực hiện nghiêm chỉ đạo của cấp ủy, cơ quan nội chính ở Trung ương và địa phương trong xử lý án tham nhũng, chức vụ trọng điểm, đồng thời phải biết thỉnh thị, báo cáo cấp trên ngành dọc để được hướng dẫn, xử lý.

Thứ hai, tăng cường năng lực cho các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng ở VKSND các cấp.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, bảo đảm tính chuyên trách trong hoạt động của các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ ở VKSND các cấp. Chú trọng thực hiện việc điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ; lựa chọn, phân công KSV có năng lực, kinh nghiệm, có bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp để thực hiện nhiệm vụ,  đặc biệt là các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực điều tra viên CQĐT VKSND tối cao; ngoài các phòng điều tra tố tụng, cần có các đơn vị (bộ phận, phòng) thực hiện các hoạt động nghiệp vụ đặc thù phục vụ hoạt động phát hiện tội phạm và điều tra vụ án, như điều tra kỹ thuật số, phối hợp thực hiện điều tra tố tụng đặc biệt... Đây vừa là xu hướng chung, phổ biến trong thời đại kỹ thuật số, vừa là yêu cầu cấp bách, rất cần thiết đối với đặc thù đấu tranh tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra hiện nay và trong những năm tới, bảo đảm việc thu thập, đánh giá chứng cứ, tài liệu khách quan, có độ tin cậy và chính xác cao để chứng minh hành vi phạm tội. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, nghiệp vụ công tác giải quyết án tham nhũng, đặc biệt là kiến thức chuyên sâu về tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng... cho đội ngũ KSV làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án tham nhũng và điều tra viên của CQĐT VKSND tối cao, chú trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, thực hiện nghiêm kỷ luật công vụ, nội vụ nhằm bảo đảm KSV của VKSND các cấp trong ngành và điều tra viên của CQĐT VKSND tối cao giữ vững phẩm chất, bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp. Phân bổ nguồn lực tài chính đầy đủ, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng.

Thứ ba, tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND với các cơ quan hữu quan trong giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng.

Lãnh đạo VKSND phải chủ động hơn nữa trong việc phối hợp giải quyết, tháo gỡ ngay từ đầu những vướng mắc, khó khăn, không để xảy ra tình trạng mâu thuẫn về quan điểm giải quyết giữa các ngành kéo dài, gây chậm trễ, ảnh hưởng tới tiến độ điều tra, giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng, chức vụ, nhất là những vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo hoặc các vụ án dư luận xã hội quan tâm. Chủ động phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc đánh giá chứng cứ, xác định đối tượng cần khởi tố điều tra, phối hợp tham gia nghiên cứu tài liệu, thống nhất quan điểm đánh giá chứng cứ ngay từ khi chuẩn bị kết luận điều tra, lập cáo trạng truy tố, nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, đáp ứng yêu cầu của Ban Chỉ đạo. Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa CQĐT VKSND tối cao với VKSND các cấp trong việc phát hiện tội phạm và điều tra các vụ án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân các cấp khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm phải kịp thời cung cấp thông tin cho CQĐT VKSND tối cao, hỗ trợ kiểm tra, xác minh, điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền; đưa ra xét xử nghiêm minh các vụ án do CQĐT VKSND tối cao điều tra, bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa hiệu quả. Về phía CQĐT VKSND tối cao, sau khi tiếp nhận thông tin, phải khởi tố, điều tra, xử lý nghiêm minh, triệt để các hành vi tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp và thông báo kết quả cho VKSND đã cung cấp thông tin về tội phạm. Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan hữu quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong công tác tạm giữ, tạm giam, giám định tư pháp, áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các biện pháp nghiệp vụ..., bảo đảm cho hoạt động điều tra của CQĐT VKSND tối cao toàn diện và đạt hiệu quả.

Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế và thực hiện tốt công tác tương trợ tư pháp hình sự trong giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng có yếu tố nước ngoài.

Tổ chức nghiên cứu, học tập, trao đổi để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, như nghiên cứu các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và các biện pháp được áp dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng của các nước. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm để vận dụng, áp dụng, đồng thời kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung khung pháp lý về pháp luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam nhằm bảo đảm sự phù hợp với pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Chủ động triển khai các hoạt động xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế, pháp luật tương trợ tư pháp, trong đó tập trung quy định đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng ở nước ngoài. Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp song phương trong lĩnh vực hình sự có nội dung thu hồi tài sản tham nhũng và dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia thường xuyên phát sinh nhu cầu tương trợ tư pháp nhưng chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự để sớm tạo sự đồng thuận chung giữa hai nước về việc thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện hợp tác trong lĩnh vực này; đẩy mạnh trao đổi, cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu để phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng; đồng thời, tăng cường xúc tiến các hoạt động đàm phán để tiến tới việc kiến nghị cấp có thẩm quyền hai nước ký hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta./.

------------------

(1) Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013
(2) Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (Điều 86), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (Điều 30, Điều 31) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (Điều 3, Điều 20)
(3) Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 15-5-1996, của Bộ Chính trị, “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7-12-2015, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”; Nghị quyết số 04/NQ-TW, ngày 30-10-2016, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Nghị quyết số 63/2013/QH13, ngày 27-11-2013, của Quốc hội, “Về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm”
(4) Liên quan đến Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
(5) Liên quan đến Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; Nguyễn Thành Tài, Nguyễn Hữu Tín, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
(6) Liên quan đến Phan Văn Vĩnh, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát và Nguyễn Thanh Hóa, nguyên Cục trưởng C50, Bộ Công an
(7) Quá trình điều tra vụ án Hứa Thị Phấn và đồng phạm, VKSND tối cao nhận thấy việc khởi tố các bị can trong vụ án này về tội cố ý làm trái theo Điều 165 Bộ luật Hình sự là không đúng bản chất về hành vi phạm tội, dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi tài sản cho Nhà nước nên đã có kiến nghị cơ quan điều tra, yêu cầu thay đổi tội danh từ Điều 165 Bộ luật Hình sự sang Điều 140 Bộ luật Hình sự. Sau khi thay đổi tội danh đối với các bị can từ tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự, sang tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo Điều 140 Bộ luật Hình sự; quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn từ cấm đi khỏi nơi cư trú thành bắt bị can để tạm giam đối với các bị can, cùng với việc VKSND tối cao đã ban hành nhiều yêu cầu điều tra liên quan đến phát hiện và thu hồi tài sản cho Nhà nước. Kết quả, đã kê biên và phong tỏa khoảng 200 bất động sản, 24.330.592 cổ phần, cổ phiếu các loại và trên 30 tỷ đồng tiền mặt, với tổng  trị giá ước tính trên 10 nghìn tỷ đồng để bảo đảm thi hành án
(8) Điển hình là các dự án nhà, đất liên quan đến Phan Văn Anh Vũ có tổng trị giá 15.700 tỷ đồng
(9) Điển hình như: Vụ án AVG thu hồi hơn 8.500 tỷ đồng tiền thất thoát và hơn 70 tỷ đồng tiền nhận hối lộ (thu hồi 100% tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt); các vụ án liên quan đến Phan Văn Anh Vũ xảy ra tại Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh kê biên, phong tỏa, thu giữ tài sản, bất động sản và tiền với tổng trị giá  hơn 20.000 tỷ đồng; vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tổ chức đánh bạc xảy ra tại tỉnh Phú Thọ, thu giữ hơn 1.000 tỷ đồng, kiến nghị ngân hàng thu hồi 7.300 tỷ đồng; vụ án Trần Phương Bình ở Ngân hàng Đông Á và đồng phạm, kê biên, phong tỏa hơn 3.000 tỷ đồng; vụ án xảy ra tại Ngân hàng Đại Tín, thu hồi khoảng 10.000 tỷ đồng; vụ án Giang Kim Đạt, thu hồi trên 300 tỷ đồng…
(10) Điển hình như: Vụ bắt khẩn cấp Nguyễn Viết Dũng, Đội trưởng Đội điều tra tổng hợp Công an thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái nhận hối lộ; vụ Nguyễn Chí Phương, nguyên Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa nhận hối lộ; vụ Lê Thị Bích Anh, nguyên Phó Chánh án TAND huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội nhận hối lộ; vụ Lý Phương Tùng, nguyên Chi Cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang lạm dụng chức vụ, quyền hạn thu tiền của người phải thi hành án nhưng không nhập quỹ mà chiếm đoạt; vụ Trần Thị Thanh Hòa, Kế toán trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ tham ô; vụ án Trịnh Trọng Trung, nguyên Thủ kho vật chứng, Phó  Chánh Văn phòng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội tham ô tài sản là vật chứng...
(11) Cụ thể, đã ban hành văn bản kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, về “Quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản”, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 97/2019/NĐ-CP, ngày 23-12-2019, về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP”.

Theo TS. NGUYỄN HUY TIẾN/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều