Kết quả và một số kinh nghiệm về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, nhiệm kỳ 2014 - 2019

(Mặt trận) - Giám sát và phản biện xã hội đã trở thành một hoạt động thường xuyên, trọng tâm và có tác động thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có nơi được xem là hoạt động đột phá của công tác Mặt trận, góp phần khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do đó, việc thường xuyên rút kinh nghiệm, tìm các giải pháp có tác dụng thiết thực và hiệu quả trong công tác giám sát, phản biện xã hội được xem là nhiệm vụ quan trọng.

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đọc Báo cáo Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân trước Quốc hội.

Những kết quả đạt được về công tác giám sát

Qua 5 năm thực hiện, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì tổ chức thực hiện 12 chương trình phối hợp về giám sát. Việc thực hiện các chương trình phối hợp giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được sự đồng tình, hỗ trợ tích cực và rất có hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước hữu quan.

Chương trình số 01 - CTPH/MTTQ-TTCP-BTP-HLG-LĐLS ngày 11/11/2014 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam về giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở. Qua 5 năm, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan tổ chức 10 đoàn giám sát liên ngành giám sát trách nhiệm người đứng đầu các cấp trong tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người, kéo dài liên quan đến tranh chấp đất đai, xây dựng chợ, bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư...

Chương trình phối hợp số 07/CTPH-MTTW-BTC-CCCI-LMHTXVN-DNNVV-DNTVN ngày 7/4/2015 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài chính, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam về giám sát việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thuế và hải quan, sau hơn 3 năm thực hiện, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 7 đoàn giám sát tại 10 tỉnh, thành phố. Sau mỗi đợt giám sát, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, nhằm tháo gỡ về cơ chế, chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian nộp thuế, hải quan cho doanh nghiệp và người dân.

Chương trình phối hợp số 06/CTPH-MTTW-KHCN-LHHKHKTVN ngày 11/3/2015 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam về giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học, công nghệ và Luật Khoa học và Công nghệ. Qua giám sát tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và một số đơn vị (Viện) thuộc bộ, ngành đã thúc đẩy các đơn vị đã kịp thời cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản để triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và Nghị quyết số 46/NQ-CP về khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế tại địa phương; bám sát nhiệm vụ, mục tiêu về phát triển khoa học và công nghệ của Trung ương; công tác nghiên cứu, ứng dụng bước đầu đã gắn với chức năng, nhiệm vụ của các doanh nghiệp, từ đó hiện đại hóa công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa; chương trình khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; cơ sở vật chất, trang thiết bị khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm đầu tư.

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam đã tiến hành 2 cuộc giám sát thông qua hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, gồm: giám sát các văn bản liên quan đến việc ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ; giám sát Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30/9/2015 của Chính phủ về giám sát và đánh giá đầu tư liên quan đến Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Các kiến nghị sau giám sát của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được Chính phủ trả lời và chỉ đạo các bộ, ngành, liên quan khẩn trương nghiên cứu và có văn bản trả lời Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Trên cơ sở các văn bản đã triển khai giám sát ở Trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát, lựa chọn các nội dung giám sát phù hợp với thực tế tại địa phương. Đồng thời, đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các nội dung giám sát: (1) Giám sát cách thức lập và công bố chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp; giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về cải cách hành chính; (2) Giám sát việc chấp hành pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở, góp phần giảm vụ việc bức xúc, đơn thư vượt cấp, đông người ra Trung ương khiếu kiện; (3) giám sát việc “Công khai, minh bạch và trách nhiệm người đứng đầu cấp huyện, cấp xã trong trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tại các dự án kinh tế - xã hội trên địa bàn địa phương.

Trong 5 năm qua, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên cử đại diện tham gia nhiều đoàn giám sát, kiểm tra, thanh tra của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, Thanh tra Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành… trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các hoạt động liên quan tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân như: việc thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc ít người; việc quản lý và sử dụng đất của các nông, lâm trường quốc doanh; việc thi hành án dân sự, hình sự; công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri và nhân dân; công tác quản lý nhà nước về bảo đảm an toàn thực phẩm; giám sát, khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ trong đồng bào dân tộc thiểu số; khảo sát về việc dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên; giám sát, khảo sát việc tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia khám, chữa bệnh; hoạt động an sinh xã hội của các tôn giáo…

Về phản biện xã hội

Ở Trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức được 6 hội nghị phản biện xã hội: Phản biện Dự án Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Dự án Luật về Hội; Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc; Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)… với quy mô đại biểu tham gia tương đối lớn và có chiều sâu. Sau Hội nghị phản biện xã hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có văn bản phản biện gửi các cơ quan được phản biện. Kiến nghị phản biện xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được dư luận đánh giá cao, nhiều nội dung phản biện được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu và có ý kiến phản hồi tích cực.

Ở địa phương, căn cứ hướng dẫn hằng năm của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, căn cứ Kế hoạch xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án của địa phương, trên cơ sở điều kiện, tình hình thực tế của từng địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã lựa chọn nội dung, vấn đề phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền phù hợp, đúng, trúng những vấn đề mà nhân dân đang quan tâm để tiến hành góp ý kiến và phản biện xã hội theo định hướng: Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tập trung phản biện dự thảo các chính sách, pháp luật; Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã tập trung phản biện xã hội các dự thảo chương trình, đề án có liên quan trực tiếp đến nhân dân ở địa phương.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Một là, việc tổ chức triển khai thực hiện Quy chế, quy định còn chậm so với yêu cầu đặt ra; Việc xác định đối tượng, nội dung, phương thức triển khai thực hiện, giám sát, phản biện xã hội còn lúng túng. Tính chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở một số địa phương chưa cao. Vẫn còn hiện tượng một số nơi chưa chủ động triển khai công tác giám sát, phản biện xã hội, còn trông chờ sự chỉ đạo của cấp ủy, việc đề nghị của các cơ quan nhà nước.

Hai là, trong quá trình giám sát, phản biện xã hội, một số đề xuất, kiến nghị của Mặt trận chưa được chính quyền các cấp quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng.

Ba là, kết quả giám sát ở một số nơi còn hình thức, chung chung, dàn trải, thiếu số liệu cụ thể, chưa đề cập sâu đến những vấn đề giám sát; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện và cấp xã nhiều nơi còn lúng túng trong triển khai giám sát, phản biện xã hội; chưa áp dụng linh hoạt 4 hình thức giám sát, 3 hình thức phản biện xã hội.

Bốn là, chất lượng nhiều văn bản kiến nghị giám sát, phản biện xã hội còn chưa bảo đảm, nhiều nơi còn hình thức, chủ yếu tập trung góp ý kỹ thuật soạn thảo văn bản. Một số nơi còn nhầm lẫn hoạt động giám sát với hoạt động kiểm tra nội vụ; nhầm lẫn hoạt động theo dõi thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước với hoạt động giám sát thông qua hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; nhầm lẫn giữa phản biện với góp ý; giữa phản biện xã hội theo hình thức đối thoại trực tiếp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cơ quan, tổ chức có dự thảo văn bản được phản biện xã hội với các cuộc tiếp xúc, đối thoại của người đứng đầu để giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo.

Năm là, ở một số nơi, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa thể hiện được bản lĩnh dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Vẫn còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm trong quá trình giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do nhận thức của một số lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và Mặt trận về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội còn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc và toàn diện, đôi khi coi nhẹ công tác giám sát, phản biện xã hội. Có nơi, bố trí cán bộ chưa phù hợp, do đó hạn chế tác dụng và hiệu quả. Nội dung, phạm vi giám sát, phản biện xã hội rất rộng, đòi hỏi nhiều và ngày càng cao, trong khi đó, số lượng và chất lượng của cán bộ, công chức làm công tác Mặt trận có hạn, chưa theo kịp với yêu cầu.

Một số kinh nghiệm rút ra

1. Từ kinh nghiệm những nơi làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội cho thấy, cần có sự có quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy, sự phối hợp tích cực, trách nhiệm của chính quyền, sự thống nhất của các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên và phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn và sự quan tâm của toàn thể nhân dân. Khắc phục các biểu hiện làm khép kín, lực lượng, thông tin trong phạm vi hẹp.

2. Phát huy vai trò chủ động, chủ trì của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong việc xây dựng kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hằng năm, nhất là việc xác định, lựa chọn nội dung, phạm vi, hình thức giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Phân định rõ nội dung Mặt trận chủ trì, nội dung từng đoàn thể chính trị- xã hội chủ trì. Trong tổ chức thực hiện phải linh hoạt, quan tâm đến những vấn đề lớn nảy sinh, không cứng nhắc chỉ làm theo kế hoạch.

Đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, phổ biến kinh nghiệm hay, cách làm có tác dụng, hiệu quả thiết thực; tránh giám sát, phản biện dàn trải, hiệu quả thấp.

3. Kết hợp chặt chẽ việc nắm bắt dư luận xã hội, tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của đoàn viên, hội viên và nhân dân với hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

4. Trước khi tiến hành hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn. Đối với các vụ việc phức tạp, những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau cần tiến hành khảo sát, điều tra xã hội học, phân công trách nhiệm cụ thể cho các chuyên gia, nhà khoa học.

5. Việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị giám sát, kiến nghị phản biện xã hội và góp ý phải khoa học, khách quan, trung thực, đầy đủ, có sự chắt lọc đảm bảo đầy đủ căn cứ pháp lý, khoa học và thực tiễn, đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thi, bảo đảm thời gian và sức thuyết phục đối tượng được giám sát, phản biện xã hội.

6. Phân công cán bộ có trách nhiệm, mở sổ thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc tiếp thu, trả lời các ý kiến, kiến nghị sau giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát, được góp ý và sau phản biện của cơ quan tổ chức có dự thảo được phản biện.

Ngô Sách Thực

Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, 2016.

3. Quốc hội, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

4. Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều