Phát huy vai trò đồng bào dân tộc thiểu số trong xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long

Toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện có khoảng 1,4 triệu đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) cư trú, chiếm khoảng 10% đồng bào DTTS trong cả nước. Nhiều năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân, vùng ĐBSCL tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống người dân không ngừng được cải thiện; quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững;... Những thành tựu đó có sự đóng góp công sức quan trọng của đồng bào DTTS, đặc biệt là trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Diện mạo nông thôn mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách ngày càng toàn diện và phù hợp về công tác dân tộc với quan điểm: Tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS sinh sống là đầu tư cho phát triển, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nhằm đạt mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Trên cơ sở đó, nhiều nghị quyết, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án do Ủy ban Dân tộc và các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL ban hành đều có lồng ghép nội dung chính sách cụ thể đối với vùng đồng bào DTTS đúng theo tinh thần các chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã ban hành.

Trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tính  từ năm 2015 đến nay, Ủy ban Dân tộc đã tham mưu với Chính phủ, Quốc hội phê duyệt, cụ thể hóa thành các nhiệm vụ cụ thể, thực hiện các cơ chế, chính sách, dự án nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng đồng bào DTTS như: Quyết định số 582/QĐ-TTg, ngày 28-4-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2016 - 2020”; Quyết định số 900/QĐ-TTg, ngày 20-6-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2017 - 2020”; Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội, “Về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Đó cũng chính là những nền tảng pháp lý quan trọng để phát huy vai trò của đồng bào DTTS trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xây dựng nông thôn mới nói riêng ở vùng ĐBSCL.

Theo báo cáo của Văn phòng Điều phối Xây dựng nông thôn mới Trung ương về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tính đến tháng 3-2020, vùng ĐBSCL có 702 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 55,94%; (cả nước là 52,40%); bình quân mỗi xã ở ĐBSCL đạt 16,63/19 tiêu chí (cả nước là 15,32/19 tiêu chí); toàn vùng có 17 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (cả nước có 109 đơn vị cấp huyện được công nhận). Một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới vượt chỉ tiêu đề ra như: thành phố Cần Thơ có 100% xã đạt chuẩn, tỉnh Tiền Giang: 82,05%, tỉnh Bạc Liêu: 73,47%; tỉnh Trà Vinh: 67,06%; Nhờ triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả những đề án, chính sách ở vùng đồng bào DTTS cùng với kết quả xây dựng nông thôn mới, đời sống của đồng bào vùng DTTS ở ĐBSCL ngày càng được cải thiện. Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, từ năm 2016 đến nay, Chương trình 135 được bố trí nguồn vốn gần 20.000 tỷ đồng. Nguồn vốn này đã góp phần không nhỏ giúp vùng DTTS ở ĐBSCL xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nhiều mô hình sinh kế, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo, tích cực góp phần thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Đến nay, trên 99% xã vùng đồng bào DTTS ở ĐBSCL đã có đường cho xe ô tô đến trung tâm xã; bình quân 70% đường ấp, liên ấp được nhựa hóa hoặc bê tông hóa. Đã có 25.156 hộ được hỗ trợ đất ở, 120.000 hộ được hỗ trợ nhà ở; 9.728 hộ được hỗ trợ đất sản xuất; 73.107 hộ được hỗ trợ giải quyết việc làm; trên 139.000 lao động được đào tạo nghề và trên 204.319 lao động được hỗ trợ tạo việc làm mới; 105.800 hộ được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm 3% - 4%/năm, đến  nay còn 19,93% (cả nước 22,2%); tỷ lệ hộ có phương tiện nghe nhìn trên 98%, hộ có điện sử dụng trên 97%, hộ sử dụng nước hợp vệ sinh trên 93,9%. Trong công tác chăm sóc sức khỏe, 100% xã trong vùng đều có trạm y tế, số lượng cán bộ y tế người DTTS ngày càng tăng (hiện có hơn 2.100 người); 100% hộ nghèo DTTS được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Tỷ lệ học sinh người DTTS trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng không ngừng tăng, việc dạy tiếng DTTS tại các trường vùng đồng bào dân tộc thiểu số được duy trì. Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chính sách đối với người có uy tín được quan tâm triển khai thực hiện,...

Những kết quả đó đã làm thay đổi diện mạo, khởi sắc nhiều vùng nông thôn, vùng có đông đồng bào DTTS ở ĐBSCL, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, tạo tiền đề cho việc khơi dậy, phát huy vai trò chủ thể đích thực của đồng bào DTTS trong việc tự nguyện hưởng ứng, tích cực tham gia, đóng góp vào công cuộc cơ cấu lại kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Tỉnh Sóc Trăng hiện có hơn 30% dân số là đồng bào dân tộc Khmer và có 29 xã, 158 ấp nằm trong danh sách Chương trình 135. Một trong những mô hình tiêu biểu trong phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh ở vùng có đông đồng bào DTTS là mô hình thực hiện Dự án “Phát triển chăn nuôi bò sữa”, tập trung ở các huyện Châu Thành, Mỹ Xuyên, Trần Đề, Mỹ Tú. Đến nay, đã có gần 9.500 con bò sữa được nông dân ở các địa phương này nuôi với sản lượng sữa bình quân mỗi ngày khoảng 28 tấn. Ngoài ra, còn có 124 nhóm tham gia dự án với gần 3.000 thành viên. Các thành viên, chủ yếu là người dân tộc Khmer, được hỗ trợ vốn vay làm chuồng nuôi, máy cắt cỏ, máy vắt sữa, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi. Nhờ đó, nhiều thành viên từ nghèo khó đã vươn lên khá giả.

 Mô hình “Phát triển chăn nuôi bò sữa" ở tỉnh Sóc Trăng (Trong ảnh: Ông Danh Sal, ấp Vũng Đùng, xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng phát triển mô hình nuôi bò sữa nhờ nguồn vốn chương trình cho vay hộ cận nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội)_Nguồn: www.qdnd.vn
Tỉnh Trà Vinh có dân số hơn 1 triệu người, trong đó gần 32% là đồng bào dân tộc Khmer. Nhiều năm qua, Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã có những chủ trương đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào DTTS, giúp đồng bào từng bước thay đổi trong nếp nghĩ, cách làm, ngày càng phát huy tính tích cực, chủ động trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo... Điển hình như mô hình chăn nuôi bò thịt và sinh sản những năm gần đây phát triển mạnh, với tổng đàn bò toàn tỉnh hiện có trên 200.000 con, tăng hơn 20% so với năm 2018. Những nông dân được nhận bò nuôi theo chương trình (hầu hết là đồng bào DTTS) đã tăng thu nhập, từng bước ổn định và cải thiện đời sống, có điều kiện tham gia thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

Tỉnh Đồng Tháp với mô hình “Hội quán” là một bước đi đột phá trong phong trào xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL. Toàn tỉnh hiện có 80 Hội quán với khoảng 4.300 thành viên và 17 hợp tác xã được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện cộng đồng; người dân (trong đó có nhiều người DTTS) tham gia Hội quán theo nguyên tắc đồng thuận, với tinh thần “Chung sức xây dựng nông thôn mới”. Từ mô hình “Hội quán”, tỉnh Đồng Tháp hướng đến giải quyết tốt bài toán “liên kết - hợp tác”, hình thành các tổ hợp tác, xây dựng chuỗi giá trị cho một số loại nông sản chủ lực, tạo động lực mới trong xây dựng và phát triển nông thôn. Đến nay, ở tỉnh Đồng Tháp đã có khoảng 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trung bình mỗi xã trong tỉnh đạt 17,87 tiêu chí nông thôn mới.

Những vấn đề đáng quan tâm từ thực tiễn

Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, xây dựng nông thôn mới nói riêng tại vùng đồng bào DTTS ở ĐBSCL rất đáng ghi nhận. Tuy vậy, vùng đồng bào DTTS ở ĐBSCL, chủ yếu là vùng nông thôn, còn một số tồn tại, bất cập như:

- Tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS còn khá cao. Các DTTS chỉ chiếm khoảng 8% dân số toàn vùng nhưng tỷ lệ hộ nghèo DTTS lại chiếm tới 19,93% tổng số hộ nghèo của vùng. Điều này cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo giữa các khu vực, giữa DTTS với dân tộc khác còn cao.

- Kết cấu hạ tầng, tư liệu sản xuất vùng đồng bào DTTS còn thiếu và yếu; chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và cuộc sống người dân trên nhiều phương diện, nhất là đối tượng nông dân nghèo (chủ yếu là người dân tộc Khmer).

- Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, nhất là việc làm tại chỗ, đạt hiệu quả thấp. Nhiều lao động nông thôn là người DTTS dù đã được đào tạo nghề nhưng không tìm được việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành, nghề được đào tạo. Việc kết nối đào tạo nghề với giải quyết việc làm chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều hộ DTTS thiếu đất sản xuất chưa được tiếp cận các chính sách hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Các thế lực thù địch, các hội nhóm, các tổ chức phản động trong người Khmer  lưu vong ở nước ngoài luôn khơi gợi vấn đề lịch sử; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, lợi dụng các vấn đề tranh chấp đất đai, vấn đề biên giới lãnh thổ ở ĐBSCL để kích động chống phá Nhà nước Việt Nam, chống phá chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Thực tiễn xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào DTTS ở ĐBSCL thời gian qua đã đem lại một số bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới phải gắn kết chặt chẽ với các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương trên cơ sở có được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của cấp ủy đảng, chính quyền, sự tích cực hưởng ứng của các đoàn thể. Có như thế mới vận động, thu hút và phát huy được tính tích cực, tự nguyện tham gia của  người dân và có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng.

Thứ hai, thực hiện tốt công tác truyền thông về ý nghĩa, mục đích, yêu cầu, nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị và người dân trong vùng đồng bào DTTS. Chú trọng phát huy vai trò của người có uy tín và nội lực của mỗi người dân, mỗi gia đình, dòng họ trong cộng đồng; nêu cao vai trò tự quản, tích cực, sáng tạo của đồng bào DTTS trong việc chung sức xây dựng nông thôn mới.

Thứ ba, kịp thời xây dựng và nhân rộng các điển hình, mô hình sản xuất - kinh doanh hiệu quả cho phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền; gắn kết chặt chẽ chương trình xây dựng nông thôn mới với chương trình giảm nghèo bền vững.

Thứ tư, có nhiều giải pháp khơi gợi, phát huy vai trò chủ thể của đồng bào DTTS tại địa phương để phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong xây dựng nông thôn mới. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, trao đổi việc tổ chức thực hiện để có đánh giá, điều chỉnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cho phù hợp.

Phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong xây dựng nông thôn mới

Chú trọng bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng nông thôn mới (Trong ảnh: Lễ hội Ook Om Bok của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long)_Nguồn: laodong.vn 
Với quan điểm xây dựng nông thôn mới là để người dân làm chủ, người dân phải thực sự là chủ thể thực hiện và đứng lên làm chủ làng xóm của mình, thời gian tới, cần chú trọng thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau để phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ thể của đồng bào DTTS trong xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL:

Một là, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, vai trò quản lý của chính quyền các cấp trong thực thi công tác dân tộc và chính sách dân tộc. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần có những giải pháp thật sự thiết thực, hữu hiệu, khả thi để tận dụng những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, giúp đồng bào các DTTS phát huy dân chủ, phát huy tối đa vai trò chủ thể “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đối với những vấn đề thiết thực, liên quan mật thiết đến cuộc sống của họ trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể của đồng bào DTTS trong xây dựng nông thôn mới; chú trọng vận động đồng bào đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển kinh tế, gắn kết chặt chẽ phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, với công cuộc giảm nghèo bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,  bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa đặc sắc dân tộc.

Ba là, rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách về nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra sự đột phá, có sức tác động và phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào DTTS trong cơ cấu lại nền nông nghiệp gắn với xây dựng hợp tác xã kiểu mới, xây dựng nông thôn mới. Trong đó, cần đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở vùng đồng bào DTTS. Mỗi địa phương cần xem xét lựa chọn phương thức sản xuất phù hợp theo chuỗi giá trị đối với những sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có giá trị, có lợi nhuận, giúp tăng thu nhập cho đồng bào DTTS.

Bốn là, kịp thời nhận diện, phân tích, đánh giá, sơ kết, tổng kết các mô hình thực tiễn đạt hiệu quả cao trong xây dựng nông thôn mới ở các địa phương nhờ phát huy tốt vai trò chủ thể của người nông dân, của đồng bào DTTS. Bên cạnh đó, cần chú trọng cải tiến, hoàn thiện các chủ trương, chính sách để khuyến khích, thu hút đầu tư, phát huy vai trò các đối tác của nông dân, của đồng bào DTTS trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nhất là vai trò của các doanh nghiệp, các nhà khoa học.

Năm là, phát huy tốt hơn nữa vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào chấp hành tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; giúp đồng bào nhận thức đúng và thể hiện tốt vai trò chủ thể của mình trong xây dựng nông thôn mới; vận động đồng bào thực hiện nếp sống văn minh trong các hoạt động lễ hội, việc cưới, việc tang, xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những cái hay, tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác.

Sáu là, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò giám sát của cộng đồng dân cư trong thực hiện các công trình, dự án thuộc chương trình mục tiêu về nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục giám sát việc duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới tại các xã, huyện đã đạt chuẩn để tiến tới xây dựng xã nông thôn mới nâng cao và xã nông thôn mới kiểu mẫu./.

Theo NGUYỄN THANH SƠN - NGUYỄN HOÀNG HÀNH/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều