Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

(Mặt trận) - Xây dựng Quân đội nhân dân tinh nhuệ là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng quân đội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với các sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc_Ảnh: TTXVN 
Sau 36 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng được tăng cường và củng cố, tạo cơ sở, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển. Đảng ta chỉ rõ: Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; “đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới”1. Đảng ta nhấn mạnh: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đang đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột” vũ trang.

Trước bối cảnh đó, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là yêu cầu cấp thiết. Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm và không ngừng hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, luật, nghị định, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” là chủ trương lớn, cấp thiết, được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hết sức quan tâm, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tạo tiền đề vững chắc để năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại. Do vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng vững mạnh toàn diện không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mà còn trực tiếp cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm sức mạnh tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”2. Những năm tới, để hoàn thành mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cần quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/1/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Kế hoạch của Bộ Quốc phòng thực hiện Nghị quyết số 230-NQ/QUTW. Đây là việc làm thường xuyên, đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển của Quân đội. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc vững chắc trong tình hình mới; đòi hỏi phải triển khai thực hiện đồng bộ với những giải pháp cơ bản.

Một là, “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”3. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đến tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng tổ chức: Tinh, gọn, mạnh, có sức cơ động cao; bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Vấn đề có ý nghĩa trực tiếp đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là phải chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội, xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức đảng trong Quân đội trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Quân đội.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị; công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng trung thành. Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, chính trị, tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Tại Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là toàn diện và sâu sắc cả về tổ chức biên chế; trình độ quân sự, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; nghệ thuật quân sự, phương thức tác chiến, bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật; bảo đảm cho Quân đội ta ngày càng vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”4. Đây là định hướng mang tầm chiến lược, là căn cứ để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện theo nguyên lý vũ trang toàn dân, tính nhân dân và tính dân tộc cao. Rõ ràng, sự trưởng thành và sức mạnh chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có thể bắt nguồn, trước hết từ sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước. Sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam đã góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; bảo vệ công cuộc lao động, xây dựng phát triển đất nước, cùng toàn dân làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng làm nòng cốt cho toàn dân đánh thắng chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch. 78 năm qua, Quân đội ta sinh ra từ Nhân dân; xây dựng và phát triển trên cơ sở lực lượng hùng hậu của Nhân dân, dựa vào sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân. Mô hình tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân, bao gồm: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương, Dân quân tự vệ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc là loại hình tổ chức tiêu biểu cho nguyên lý vũ trang toàn dân. Đó là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam do bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương hợp thành, với sức mạnh chiến đấu của Lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp. Với tổ chức đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân; trong đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện xuất sắc vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, được khối đại đoàn kết toàn dân cùng tham gia với mọi vũ khí có trong tay, chăm lo, nuôi dưỡng, che chở và đùm bọc tạo nên sức mạnh vô địch, đánh thắng kẻ thù xâm lược.

Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, trên cơ sở xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Đây là giải pháp quan trọng liên quan trực tiếp đến xây dựng quân đội hiện đại. Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước”5. Với công nghiệp quốc phòng thì nội lực, tự chủ, tự cường là quyết định. Vì thế chúng ta phải vươn lên, làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới để sản xuất được các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng... Theo đó, công nghiệp quốc phòng chính là bộ phận không thể thiếu phục vụ quá trình hiện đại hóa Quân đội. Đây là định hướng chiến lược của Đảng, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các đơn vị phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức đẩy mạnh nghiên cứu phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất” phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí trang bị kỹ thuật, với nhiệm vụ của từng cấp, bảo đảm cho công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không bị chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí trang bị kỹ thuật thế hệ mới có sử dụng công nghệ cao để có phương thức bảo đảm kỹ thuật tập trung, thống nhất. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn phù hợp với điều kiện mới. Từng bước hội nhập công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp quốc gia, thúc đẩy công nghiệp quốc gia phát triển. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, làm nòng cốt xây dựng các Tổng công ty tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng, an ninh lưỡng dụng công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật cho Quân đội, tập trung vào hệ thống tên lửa, hệ thống tự động hóa chỉ huy, tác chiến không gian mạng, phòng, chống chiến tranh hạt nhân, hướng tới tác chiến vũ trụ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Quản lý nhà nước về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện hết sức quan trọng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta chỉ rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”6 vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách kịp thời, trong đó nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”7. Đồng thời, thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước điều hành quản lý nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc”.

Các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở cần nắm vững những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từng bước hoàn thiện bộ máy, cơ chế quản lý nhà nước, hệ thống chính sách, pháp luật và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về Quân đội trong giai đoạn mới.

Từ những bài học rút ra qua 78 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và giành thắng lợi vẻ vang của Quân đội ta cho thấy, dù trong hoàn cảnh nào, việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là một nguyên tắc cơ bản, hàng đầu, phải được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Đây là cơ sở để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục vận dụng vào xây dựng Quân đội về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh trong giai đoạn cách mạng mới, đảm bảo cho Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, sẵn sàng nhận, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chú thích:

1,2,3,4,5,6,7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr. 34, 109, 157-161.

Trân Nam Chuân  - Phó Giáo sư, Tiến sĩ,

nguyên cán bộ Viện chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc Phòng.

 Nguyễn Quang Trung - Viện chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều