Hướng tới mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, với mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1). Để đạt được các mục tiêu này trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm dự án nhà máy sản xuất chất bán dẫn Hana Micron Vina 2 tại Khu công nghiệp Vân Trung (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) _Ảnh: VGP

Thực trạng thực hiện mục tiêu phát triển đất nước

Những thành tựu đạt được

Thứ nhất, nhận thức của Đảng ngày càng đầy đủ và rõ nét về mô hình phát triển với mục tiêu rõ ràng, sách lược và chiến lược đưa ra có sự điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới(2). Đặc biệt, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Thứ hai, quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, thu nhập bình quân đầu người (GDP)/người và thu nhập quốc dân (GNI)/người tăng liên tục trong nhiều năm qua, tiệm cận gần tới mức của nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Tốc độ tăng trung bình của GNI/người giai đoạn 2009 - 2022 là 10,5%. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới(3), năm 1991, GNI/người của Việt Nam chỉ đạt 110 USD/người (thuộc nhóm quốc gia có thu nhập thấp nhất thế giới), tăng lên 1.120 USD/người vào năm 2009, giúp nước ta chuyển từ quốc gia có thu nhập thấp sang nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và đạt 4.010 USD/người vào năm 2022 (tăng gấp 3,58 lần so với năm 2009 và tăng gấp 36,5 lần so với năm 1991), giúp nước ta thu hẹp khoảng cách ngày càng nhanh hơn với mốc thu nhập của nhóm nước có thu nhập trung bình cao.

Thứ ba, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong GDP và giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp trên tổng lao động xã hội. Số liệu của Tổng cục Thống kê(4) cho thấy, tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP tăng từ 33,02% năm 2010 lên 38,17% năm 2022; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm từ 73,2% năm 1990 xuống còn 27,5% vào năm 2022. Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp tăng từ 16,22 triệu đồng/lao động năm 2010 lên 81,9 triệu đồng/lao động năm 2022 (tăng hơn 5 lần sau 12 năm) nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ mới để hấp thu lao động từ nông nghiệp chuyển sang.

Thứ tư, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam phát triển tương đối năng động, đóng góp tích cực vào nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp. Theo báo cáo của Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) năm 2022(5), ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam đã đóng góp 24,76% trong GDP, giá trị gia tăng bình quân đầu người của Việt Nam (MVApc) tăng từ 190 USD/người năm 2010 lên 829 USD/người năm 2020 (tăng 4,63 lần trong 10 năm). Điều này giúp Việt Nam vươn lên tốp 30 của thế giới về năng lực cạnh tranh công nghiệp theo tính toán chỉ số giá tiêu dùng (CIP) của UNIDO vào năm 2023.

Thứ năm, trình độ phát triển con người có sự cải thiện đáng ghi nhận. Năm 2019, Việt Nam lọt vào nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao. Theo dữ liệu tổng hợp của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)(6), năm 1990, HDI của Việt Nam chỉ đạt 0,477, là một trong các quốc gia có chỉ số phát triển con người thấp nhất thế giới, sau đó tiến dần lên. Năm 2018, chỉ số HDI của Việt Nam đạt 0,697 điểm; đến năm 2019 đạt 0,703, lọt vào nhóm có HDI cao;  năm 2020 là 0,710 điểm và năm 2022 là 0,703 điểm. 

Thứ sáu, tốc độ đô thị hóa có sự tăng trưởng ngày càng cao qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê(7), tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng từ 20,3% vào năm 1990 lên 37,55% năm 2022. Đặc biệt, quá trình đô thị hóa hướng tới mục tiêu phát triển theo hướng xanh hơn, thực hiện cam kết giảm phát thải khí mê-tan xuống 30% và đạt được mức phát thải các-bon ròng bằng 0 vào năm 2050.

 

Một số hạn chế

Nếu so với mục tiêu đặt ra thì quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển thời gian qua của Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế và rào cản, được thể hiện qua Bảng 1 ở trên.

Theo Bảng 1, có thể thấy rõ một số thách thức và hạn chế:

Một là, khoảng cách tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao GDP/người đạt 7.500 USD và GNI/người đạt trên 7.000 USD vào năm 2030 là thách thức không nhỏ với Việt Nam trong 6 năm tới. Khoảng cách cần phấn đấu tăng thêm GNI/người là trên 2.990 USD/người (tương đương với mức thu nhập tăng thêm mà nước ta đã phấn đấu trong 13 năm, từ năm 2009 đến năm 2022). Điều này đòi hỏi có những đột phá trong thời gian tới. Việt Nam có nguy cơ tụt hậu so với các quốc gia trên thế giới khi chuyển từ mức thu nhập trung bình thấp sang mức thu nhập trung bình cao, vì Trung Quốc chuyển sang nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp vào năm 1999, đến năm 2010 đã chuyển sang nhóm quốc gia thu nhập trung bình cao (sau 11 năm); In-đô-nê-xi-a vào nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp năm 2003 nhưng đến các năm 2019, 2022 đã từng bước chuyển lên nhóm quốc gia thu nhập trung bình cao (sau 16 năm)(9).

Hai là, sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp sẽ có thể không đạt kỳ vọng nếu thiếu quyết tâm. Đến năm 2030, mục tiêu đưa tỷ trọng lao động trong nông nghiệp xuống dưới 20% rất khó đạt được khi khoảng cách còn hơn 7,5% nữa vì cần làm rất nhiều việc, bao gồm đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp; phát triển công nghiệp và dịch vụ để tạo việc làm, có khả năng hấp thụ lao động từ nông nghiệp chuyển sang; đào tạo nguồn nhân lực có đủ khả năng tự tạo việc làm thông qua thành lập doanh nghiệp hoặc nguồn nhân lực có đủ kiến thức, kỹ năng làm việc trong doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, nếu duy trì và phát huy tốt tốc độ tăng trưởng và giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp như thời gian qua thì có thể đạt được vì đây cũng là khoảng cách mà Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn 2018 - 2023.

Ba là, HDI của Việt Nam, mặc dù đã đạt ở mức cao (trên 0,7), tuổi thọ trung bình đã gần tiệm cận mục tiêu 75 tuổi, nhưng vẫn chưa thực sự ổn định và thiếu bền vững. Việt Nam vẫn là một quốc gia có điểm số HDI thấp nhất trong nhóm các quốc gia có HDI cao. Năm 2021, Việt Nam xếp thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ(10), chỉ cải thiện 5 bậc từ năm 2015 đến nay.

Bốn là, khả năng đạt mục tiêu về tỷ lệ đô thị hóa vào năm 2030 là tương đối thách thứcNgay cả khi đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước khác trong khu vực và rất khó đạt mục tiêu có tỷ lệ đô thị hóa trên 50% như các quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030.  

Năm là, chỉ số giá trị gia tăng ngành chế biến, chế tạo bình quân đầu người (MVApc) còn khoảng cách quá xa so với mục tiêu phải đạt trên 2.000 USD vào năm 2030. Theo UNIDO, mặc dù năng lực cạnh tranh công nghiệp của Việt Nam (CIP) nằm trong tốp 30 của thế giới, nhưng MVApc của Việt Nam vẫn còn rất thấp. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa đạt được mức của nhóm nền kinh tế công nghiệp mới nổi (khi MVA bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD).

Bên cạnh các nguyên nhân khách quan do biến đổi khí hậu và dịch bệnh, tình hình địa - chính trị thế giới diễn ra phức tạp dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và đặc biệt sự phát triển với tốc độ chóng mặt của khoa học - công nghệ, quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước còn một số hạn chế là do các nhóm nguyên nhân đến từ nội tại nền kinh tế - xã hội của Việt Nam:

Thứ nhất, mặc dù Việt Nam đã chuyển đổi mô hình tăng trưởng và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng vẫn chưa đạt được nhận thức đầy đủ về hệ sinh thái khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia, kết cấu hạ tầng cho phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo ở trình độ thấp, chưa trở thành nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong khi khoa học - công nghệ trên thế giới đang có tốc độ phát triển nhanh, máy móc, công nghệ có vòng đời ngắn và dễ lạc hậu, đặc biệt là công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo (AI). Do đó, nếu Việt Nam phát triển khoa học - công nghệ theo tuần tự và theo kiểu truyền thống, sẽ không còn phù hợp, khó đuổi kịp với trình độ phát triển công nghệ trên thế giới, không phát huy được thế mạnh. Năng lực sáng tạo của Việt Nam thể hiện qua chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố hằng năm đang có xu hướng tụt hậu so với các quốc gia khác. Kết quả xếp hạng GII qua các năm cho thấy(11), năm 2019, Việt Nam đã được xếp hạng thứ 42/132 quốc gia, nhưng giai đoạn 2020 - 2022, chúng ta bị tụt hạng liên tục, xuống thứ 48, năm 2023 được xếp thứ 46, nằm trong tốp 50 của thế giới. Trong khi đó, nguồn lực vốn cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo còn rất thiếu so với nhu cầu phát triển và so với các quốc gia trong khu vực. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2021(12), tổng chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D)/GDP của Việt Nam chỉ đạt 0,42% (giảm từ 0,53% năm 2019 xuống 0,42% vào năm 2021), thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D)/GDP của Trung Quốc là 2,99%; Ma-lai-xi-a là 1,44%, Thái Lan là 0,78%). Theo Niên giám thống kê năm 2022, tỷ lệ chi từ ngân sách cho khoa học - công nghệ có xu hướng giảm từ 0,77% năm 2018 xuống còn 0,55% năm 2022, không đạt mục tiêu tối thiểu 2% ngân sách được đề ra trong Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11-4-2012, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020”.

Thứ hai, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực cạnh tranh tài năng của Việt Nam kém hơn so với các quốc gia trong khu vực. Theo Báo cáo về chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu(13), Việt Nam xếp hạng thứ 74/133 quốc gia, trong khi Trung Quốc xếp hạng thứ 36, Xin-ga-po xếp hạng thứ 2. Tỷ lệ người học đại học trên 1 vạn dân của Việt Nam quá thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Kết quả báo cáo của Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy, Việt Nam chỉ có 215 sinh viên/1 vạn dân(14); 7,6 cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân (số cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân ở Trung Quốc là 13,1; Ma-lai-xi-a: 68,8; In-đô-nê-xi-a: 57,5 và Thái Lan: 93,4). Theo Báo cáo khảo sát của Tổng cục Thống kê và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) năm 2022(15), chỉ 39% thanh, thiếu niên của Việt Nam từ 15 - 24 tuổi có kỹ năng tốt về công nghệ thông tin và truyền thông. Tỷ lệ nhà nghiên cứu trên 1 vạn dân của Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam còn thiếu các trường đại học xếp hạng cao trên thế giới và chưa có chiến lược đầu tư bài bản để thu hút nhân tài.

Thứ ba, năng lực khoa học - công nghệ nội sinh thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), điều này được thể hiện ở số đăng ký sáng chế chủ yếu của nước ngoài. Theo báo cáo của Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia(16), năm 2021 có tổng số 94,9% bằng sáng chế và độc quyền sáng chế được cấp cho người nước ngoài và doanh nghiệp nước ngoài, chỉ 5,1% được cấp cho người Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam. Báo cáo này cũng cho thấy, 80% doanh nghiệp FDI có công nghệ trung bình, 15% doanh nghiệp có công nghệ thấp và chỉ 5% doanh nghiệp FDI có công nghệ cao, hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI rất thấp so với các quốc gia thế giới và đang có xu thế tụt hậu.

 

Các kỹ sư của Tổng Công ty Công nghiệp công nghệ cao Viettel nghiên cứu, sản xuất thiết bị 5G _Nguồn: vietnamplus.vn

Quan điểm, định hướng phát triển trong thời gian tới

Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII xác định: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình thực hiện mục tiêu phát triển đất nước thành nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á. Để thực hiện được điều này, cần lưu ý các vấn đề sau:

Một là, phát triển đất nước và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững. Quan điểm này bao gồm ba mặt có quan hệ ràng buộc, chế ước lẫn nhau: Tốc độ - chất lượng, hiệu quả - phát triển bền vững. Trong thời đại ngày nay, phát triển bền vững là một xu thế tất yếu. Trong bất cứ trường hợp nào, cũng không chấp nhận “đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra khó lường như hiện nay.

Hai là, tập trung đầu tư, phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan trọng làm nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này là cơ sở xác định chính sách bảo đảm điều kiện để phát huy vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá trình phát triển và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, cần tập trung nguồn lực, từng bước hoàn thiện hệ sinh thái khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia, qua đó xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Ba là, tập trung thu hút và khai thác nguồn lực con người, nhất là nhân lực chất lượng cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa với những biến động khó lường như hiện nay, nguồn lực con người đóng vai trò ngày càng quan trọng và trở thành lợi thế cạnh tranh của các quốc gia. Do đó, cần quan tâm thu hút và khai thác tốt nguồn lực con người cho phát triển, đặc biệt là không chỉ tập trung cải thiện các yếu tố đầu vào của nguồn lực con người, như kiến thức, kỹ năng làm việc trong bối cảnh mới, mà còn cần quan tâm đến các yếu tố sức khỏe, tâm, sinh lý con người và sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Tập trung đầu tư đưa một số trường đại học vào các bảng xếp hạng cao trên thế giới và nâng cao vị thế nguồn lực con người của Việt Nam trong các bảng xếp hạng cạnh tranh tài năng toàn cầu.

Bốn là, cần kết hợp hài hòa giữa phát huy nội lực của đất nước với huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển. Quan điểm này là cơ sở xác định chính sách huy động nguồn lực cho đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để vừa bảo đảm tự chủ về kinh tế, vừa phù hợp với yêu cầu tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để bù đắp những yếu tố trong nước còn thiếu hụt, tạo điều kiện tiếp thu nhanh thành tựu tiên tiến của khoa học - công nghệ để thực hiện yêu cầu hiện đại hóa đất nước. Cần có chính sách tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng và ổn định để phát huy được vai trò của mỗi thành phần kinh tế, góp phần thiết thực vào thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Năm là, khai thác và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả bằng việc phát triển có trọng điểm trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, từng ngành, tạo sự “bứt phá” tiến kịp trình độ hiện đại và mở rộng liên kết vùng. Trên cơ sở đánh giá khách quan nguồn lực, xác định đúng lợi thế so sánh của các vùng lãnh thổ và lĩnh vực,... để xác định các vùng, lĩnh vực cần được ưu tiên tập trung nguồn lực để tạo nên sự bứt phá trong phát triển, làm đầu tàu, động lực lôi kéo phát triển các vùng và lĩnh vực khác. Theo tinh thần ấy, việc tổ chức không gian kinh tế theo lãnh thổ cần chú trọng hình thành và phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm như những cực tăng trưởng của đất nước. Với lợi thế về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống kết cấu hạ tầng và sự hấp dẫn với nhà đầu tư trong và ngoài nước, việc phát triển bứt phá của các vùng kinh tế trọng điểm có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển bứt phá của các vùng kinh tế trọng điểm sẽ phát huy tác động lan tỏa và hỗ trợ các vùng khác phát triển trên cơ sở thiết lập các liên kết nội vùng và liên vùng.

Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cần xác định rõ các ngành, các loại sản phẩm trọng điểm - mũi nhọn. Đó là các ngành, sản phẩm giữ vai trò then chốt, trọng yếu trong cơ cấu ngành kinh tế, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, có tiềm năng tăng trưởng mạnh và ổn định trong dài hạn. Việc xác định các ngành, sản phẩm trọng điểm - mũi nhọn cần đáp ứng được các điều kiện cơ bản: 1- Có lợi thế so sánh động nổi trội, làm cơ sở để tạo lập lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; 2- Có khả năng tác động thúc đẩy/lôi kéo phát triển các ngành khác; 3- Có dung lượng thị trường trong nước và quốc tế đủ lớn và ổn định trong dài hạn làm cơ sở cho việc đầu tư phát triển sản xuất ổn định; 4- Có khả năng tham gia sâu, rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; 5- Có khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất để tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường./.

-------------------------------

* Đây là một phần kết quả nghiên cứu của Đề tài KX04.19/21-25 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 217 - 218
(2) Như: Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Bộ Chính trị, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị, về “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”,...
(3) Ngân hàng Thế giới: “Các chỉ số phát triển chung”, https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GNP.PCAP.CD/1ff4a498/Popular-Indicators
(4) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê qua các năm 2010, 2022, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke 2010-2022
(5) UNIDO: Chỉ số năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP), https://stat.unido.org/cip/
(6) UNDP: “Dữ liệu chỉ số phát triển con người”, http://hdr.undp.org 
(7) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2022, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/06/nien-giam-thong-ke-2022/
(8) GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; phấn đấu nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP vào năm 2030 đạt trên 40%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%, chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20%,... 
(9) Ngân hàng Thế giới: “Các chỉ số phát triển chung”, Tlđd|
(10) UNDP: “Dữ liệu chỉ số phát triển con người”, Tlđd
(11) Xem: “Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu qua các năm 2012 - 2022”, Cổng Thông tin điện tử Cục Sở hữu trí tuệ, ngày 6-2-2023, https://ipvietnam.gov.vn/hoat-ong-shcn-quoc-te/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/chi-so-oi-moi-sang-tao-sang-tao-toan-cau-2022
(12) Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2022, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2023, tr. 69, https://vista.gov.vn/vi/science-technology/sa-ch-kh-cn-vie-t-nam/sa-ch-kh-cn-vie-t-nam-2022-13.html
(13) Trường Đào tạo về kinh doanh INSEAD (Pháp), Tập đoàn Tuyển dụng nhân sự Adecco (Thụy Sĩ) và Viện Lãnh đạo và vốn con người Xin-ga-po: Chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu (GTCI), https://www.insead.edu/sites/default/files/assets/dept/fr/gtci/GTCI-2022-report.pdf, 2022
(14) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tờ trình Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, 2022
(15) Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNICEF: Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020 - 2021, Báo cáo kết quả điều tra, Hà Nội, 2021
(16) Xem: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2022, Sđd

GS, TS TRẦN THỊ VÂN HOA - GS, TS HOÀNG VĂN HOA

Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Theo Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều