Cội nguồn sáng tạo và sức mạnh Việt Nam

(Mặt trận) - Xuân Canh Ngọ năm 1930, lịch sử dân tộc ghi dấu một sự kiện khởi nguồn cho những chuyển biến lớn lao và làm rạng danh dân tộc Việt Nam trong thời đại mới: Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập! Từ mùa Xuân lịch sử đó, sức mạnh và sức sáng tạo của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm tạo dựng trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước và sự cố kết cộng đồng đã được kế thừa, nâng lên tầm cao và trình độ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng; dân tộc Việt Nam trở thành biểu tượng về những nỗ lực vượt khó, những sức bật mạnh mẽ, sự vươn lên không ngừng và gặt hái những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử và thời đại được Nhân dân thế giới ngưỡng mộ. Vị thế và quốc hiệu Việt Nam ngày càng rạng rỡ trên trường quốc tế; giá trị văn hóa Việt Nam ngày càng lan tỏa khắp năm châu.
Đảng Cộng sản Việt Nam là cội nguồn sáng tạo và sức mạnh của dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là nhân tố quyết định dòng chảy và xu thế tất yếu của lịch sử dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam về độc lập, tự do, từ khát vọng của Nhân dân về hòa bình, phát triển và chấn hưng đất nước

Do những sai lầm trong trị vì đất nước, sự bạc nhược khi đối đầu với họa xâm lăng của triều đình phong kiến, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, giàu truyền thống yêu nước và văn hiến bị suy yếu,  bị xâm lược và trở thành thuộc địa của thực dân. Không cam tâm làm nô lệ, lớp lớp người Việt Nam đã kế tiếp nhau đứng lên đấu tranh chống xâm lăng, nhằm giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền và nền thống nhất quốc gia, song, đều không thành công. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”, “dân ta chưa hiệp lực đồng tâm”… tựu trung lại là thiếu một tổ chức lãnh đạo có thể khơi dậy và nhân lên sức sáng tạo của Nhân dân, có thể quy tụ và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ, tù túng, nghèo nàn và lạc hậu, có thể cứu giống nòi Việt Nam khỏi nguy cơ bị suy vong, bảo vệ nền văn hiến Việt Nam khỏi bị lụi tàn.

Trong bối cảnh xã hội tăm tối, “tưởng như không có đường ra”, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã dấn thân tìm tòi chân lý cứu nước. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu, tiếp thu, tổng kết và phát triển lý luận cách mạng thế giới mà cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời, cũng là người chiến sĩ cộng sản duy nhất trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế đã có một quá trình khảo nghiệm thực tiễn sâu rộng khắp năm châu, để từ đó có một cách nhìn toàn cục về bản chất của chủ nghĩa thực dân, xu thế thời đại và vai trò của cuộc đấu tranh giải phóng tại các thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc xác lập con đường cứu nước, đưa cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam đi theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sản xuất hiện và nhanh chóng vươn lên nắm vai trò chủ đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng, những nỗ lực không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức đã dẫn đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào Xuân Canh Ngọ lịch sử năm 1930. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lực lượng lãnh đạo, tạo nên một bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng Việt Nam.

Đứng ở vị trí trung tâm lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng là cội nguồn sáng tạo và sức mạnh để dân tộc Việt Nam gặt hái được những thành công rực rỡ

Trên chặng đường 15 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc từ 1930 đến 1945, sức mạnh, trí tuệ, bản lĩnh và sức sáng tạo lớn lao của dân tộc Việt Nam, tinh hoa cách mạng thế giới đã được Đảng chắt lọc, kết tinh trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Đảng đã xác định đúng tầm quan trọng của vấn đề độc lập dân tộc, trên cơ sở đó, giương cao ngọn cờ giải phóng, độc lập dân tộc, xử lý đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc - dân chủ, dân tộc - quốc tế, qua đó, huy động được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc cùng đồng tâm hiệp lực trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, đấu tranh giành lại tự do cho dân tộc. Đảng đã áp dụng sáng tạo và đạt hiệu quả cao các phương pháp cách mạng trong tổ chức, xây dựng, tập dượt lực lượng gắn kết với các hình thức đấu tranh độc đáo, tiến tới nhìn nhận và nắm bắt đúng thời cơ, kịp thời phát động và lãnh đạo Nhân dân ta Tổng khởi nghĩa thành công vào Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kỳ tích đầu tiên của dân tộc Việt Nam và cũng là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Đảng trong vai trò lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.

Trên chặng đường 30 năm chiến tranh cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân lần lượt đánh thắng hai đế quốc lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ nền độc lập, khôi phục nền thống nhất quốc gia, trở thành ngọn cờ đầu trong công cuộc đấu tranh phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành Đảng cầm quyền với biết bao khó khăn chồng chất, nạn thù trong, giặc ngoài đe dọa, phải tự lực chiến đấu giữa vòng vây của đủ loại kẻ thù, Đảng đã giương cao ngọn cờ ‘độc lập trên hết” “Tổ quốc trên hết”, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đảng đã hoạch định đường lối kháng chiến kiến quốc, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đường lối kháng chiến kết hợp với tài mưu lược của Đảng đã nhân lên sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, đã gắn kết sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của khối đoàn kết ba nước Đông Dương, gắn đại đoàn kết toàn dân tộc với đoàn kết quốc tế. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, từ tình thế “châu chấu đá voi” càng đánh càng mạnh và đi đến kết thúc thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.

Ngày 10/7/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát động triển khai chiên dịch tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 toàn quốc. Ngay sau lễ phát động, Thủ tướng đã có cuộc tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với đại diện Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, đại diện Đại sứ quán Mỹ, đại diện Đại sứ quán Australia tham dự sự kiện. 

Trong cuộc đụng đầu lịch sử với cuộc chiến tranh xâm lược và chế độ thực dân kiểu mới do đế quốc Mỹ thiết lập ở miền Nam Việt Nam, Đảng đã phát huy cao độ trí tuệ và bản lĩnh chính trị đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước đúng đắn, kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, phát huy đồng thời tác dụng của hai quy luật là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm mục tiêu trước mắt là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, mở đường đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chính trị, đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn của Đảng đã phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, khêu gợi và thúc đẩy sức sáng tạo vô hạn của quân và dân cả nước trong xây dựng và chiến đấu. Hệ quả là, Nhân dân ta đã đánh bại lần lượt các kế hoạch xâm lược tàn bạo của kẻ thù và giành thắng lợi trọn vẹn trong mùa Xuân 1975, giang sơn thu về một mối. Cho đến nay, chưa có một đảng chính trị cầm quyền nào trên thế giới giải quyết thành công đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, kéo dài và trong bối cảnh thế giới rất phức tạp như Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là kỳ tích thứ hai của dân tộc Việt Nam kể từ khi có Đảng lãnh đạo, cũng là thắng lợi vĩ đại thứ hai của Đảng trong vai trò lãnh đạo dân tộc Việt Nam.

Trên chặng đường cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975, Đảng lãnh đạo Nhân dân bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đánh thắng trong hai cuộc chiến tranh chống xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia, tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Vượt qua những sai lầm, giáo điều, chủ quan duy ý chí trong xây dựng đất nước, với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm và có bước đi thích hợp, Đảng đã lãnh đạo đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, tích cực hội nhập quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết của toàn dân cùng nỗ lực phấn đấu thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng ổn định với mức tăng trưởng khá cao; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, quốc phòng và an ninh được bảo đảm vững chắc; quan hệ đối ngoại được mở rộng hơn bao giờ hết. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như sau 35 năm đổi mới đã chứng tỏ nhận thức và lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn; tạo nền tảng, cơ sở chắc chắn cho kỳ vọng phát triển, khát vọng hùng cường và cho sức vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Thành tựu của của công cuộc đổi mới là kỳ tích thứ ba của dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng, đồng thời là thắng lợi vĩ đại thứ ba của Đảng trong lãnh đạo dân tộc Việt Nam.

Những thành tựu lớn lao của dân tộc Việt Nam 92 năm qua có một nguyên nhân mang tính chất quyết định: Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện xuất sắc vai trò, trách nhiệm một đội tiên phong lãnh đạo một dân tộc tiên phong

Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, các Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị của Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là Đảng kiên định trách nhiệm cao cả phụng sự dân tộc, toàn ý, toàn tâm chăm lo, bảo vệ lợi ích dân tộc và hạnh phúc Nhân dân. Chính vì Đảng luôn phấn đấu vì lợi ích dân tộc, gắn bó và luôn hòa mình trong quần chúng mà dẫn dắt quần chúng tiến lên, nên Nhân dân tin tưởng, theo Đảng làm cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách khắc nghiệt. Cũng từ đó, trí tuệ của Đảng, sức sáng tạo và nguồn lực sức mạnh dồi dào của Nhân dân hòa quyện, tạo nên một biểu tượng Việt Nam gan góc trong đấu tranh vì độc lập, tự do, kiên định, sáng tạo, đổi mới trong xây dựng và bảo vệ đất nước, đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong đấu tranh phi thực dân hóa, vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Thắng lợi của cách mạng và của dân tộc Việt Nam đều gắn liền với những bước phát triển trong công tác xây dựng, tự chỉnh đốn và sự trưởng thành của Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức và phẩm chất đạo đức. Từ trong thực tiễn lãnh đạo, Đảng đã tạo nên những giá trị cao đẹp, truyền thống vẻ vang mà nổi bật là trung thành vô hạn với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, một lòng một dạ phụng sự Nhân dân, phụng sự lợi ích tối cao của dân tộc; kiên cường trước gian lao, thử thách, kiên định, bản lĩnh và sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng; thường xuyên tự chỉnh đốn, giữ vững đoàn kết và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, gắn bó với Nhân dân, trong sáng trong quan hệ quốc tế… Từ trong phong trào quần chúng, Đảng đã xây dựng, rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, là những hạt nhân ưu tú của dân tộc. Vai trò lãnh đạo và uy tín to lớn, vững bền của Đảng đối với dân tộc bắt nguồn từ đường lối đúng đắn, từ những giá trị cao đẹp và sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

Đảng Cộng sản Việt Nam là cội nguồn sáng tạo và sức mạnh của dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là nhân tố quyết định dòng chảy và xu thế tất yếu của lịch sử dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tổ chức năm 2021 khẳng định: “Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc, đồng bào và dân tộc ta”, khẳng định bốn “kiên định” và một “bảo đảm” là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đó cũng chính là sự tiếp nối tinh thần trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc, phát huy truyền thống gắn bó Đảng và dân tộc, phát huy sức sáng tạo và sức mạnh của dân tộc Việt Nam đã được khơi thông và hợp tụ dưới sự lãnh đạo của Đảng từ mùa Xuân lịch sử 92 năm về trước.

Trần Trọng Thơ

PGS.TS, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều