|
Quang cảnh Hội thảo hiện tượng tôn giáo mới hiện nay, thực trạng và giải pháp, tháng 6/2021
|
Việt Nam là nước đa tôn giáo, tính đến nay, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo. Việt Nam trong gần 30 năm qua cũng đã xuất hiện nhiều hiện tượng tôn giáo mới với biểu hiện, tính chất khác nhau, một số hiện tượng tôn giáo mới mang màu sắc chính trị, mê tín dị đoan, có lúc, có nơi, sinh hoạt của các hiện tượng tôn giáo mới gây ra những xung đột đối với văn hóa truyền thống, gây bức xúc dư luận, tạo điểm nóng, gây bất ổn về an ninh chính trị. Sự xuất hiện các hiện tượng tôn giáo nói trên đã và đang đặt ra một nhu cầu bức thiết đối với các nhà nghiên cứu và quản lý, cần có lời giải đáp trong việc nhận thức về những vấn đề đang đặt ra cho công tác quản lý nhà nước đối với hiện tượng tôn giáo mới để có thể vừa đảm bảo tự do tôn giáo, tín ngưỡng, vừa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, ổn định an ninh, trật tự xã hội. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra là cần phải sớm xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành chủ trương và giải pháp đối với các hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta hiện nay và giải pháp, ứng xử đối với các hiện tượng tôn giáo mới trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Các khái niệm liên quan đến hiện tượng tôn giáo mới và một số vấn đề đặt ra trong việc sử dụng khái niệm, thuật ngữ hiện tượng tôn giáo mới
Trong tiếp cận học thuật của thế giới hiện nay, các nhóm tôn giáo thường được gọi một cách phổ biến là “phong trào tôn giáo mới” hoặc “các tôn giáo mới”. Tuy nhiên, tìm một định nghĩa cho khái niệm này rất khó. Các nhà nghiên cứu thay vì đưa ra định nghĩa, thường cố gắng chỉ ra các đặc điểm chung của các nhóm tôn giáo mới. Nhìn chung, các “phong trào tôn giáo mới” có đặc điểm chung là thể hiện sự mới và lạ về niềm tin, thực hành nghi lễ và cách tổ chức cộng đồng tín đồ. Các nhóm này đều có hành vi thờ cúng đối với các đối tượng thiêng cụ thể và có nhiều nhóm đưa ra những tiên tri, đặc biệt là tiên tri về thế giới sau ngày tận thế. Đây cũng là một điểm quan trọng giúp phân biệt chúng với các phong trào Thời đại mới1. Với “các nhóm thờ cúng”, khái niệm ngày càng ít được dùng. Lý do là khái niệm này không đủ rõ về tính mới của các nhóm này, do mới chỉ nói đến hành vi thờ cúng.
Ở khu vực Đông Á, giới nghiên cứu Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thường sử dụng thuật ngữ “tôn giáo mới”, “tân giáo”, “tân tôn giáo”. Điều này được giải thích, “tôn giáo mới” là đối lập với “tôn giáo truyền thống”, chúng xuất hiện sau tôn giáo truyền thống và có một số hình thái mới và đặc điểm mới. Người ta thường coi những tôn giáo xuất hiện ở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau Thế chiến II, là tôn giáo mới. Tôn giáo mới ra đời sau, nên thông thường có quy mô nhỏ, giáo phái phức tạp; phần lớn tách ra từ các tôn giáo truyền thống có quan hệ về mặt tư tưởng với tôn giáo truyền thống. Khi tách ra trở thành tôn giáo độc lập, các tôn giáo mới thường phê phán, cạnh tranh với tôn giáo truyền thống. Một số tôn giáo mới có thái độ khoan dung hơn, tiếp thu học tập tôn giáo truyền thống để cùng tồn tại và phát triển2.
Ở Việt Nam, trong thập niên 90 thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu tán đồng với các nhà quản lý gọi các hiện tượng tôn giáo mới là “đạo lạ”3. Từ đầu thế kỷ XXI, đa số các nhà nghiên cứu tôn giáo ở Việt Nam, nhất là Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Viện Tôn giáo và Tín ngưỡng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), sử dụng thuật ngữ “hiện tượng tôn giáo mới”4. Bên cạnh hai xu hướng nêu trên, cho đến nay, ở nước ta, một bộ phận các nhà nghiên cứu, chủ yếu đào tạo ở Phương Tây, vẫn sử dụng phổ biến thuật ngữ “phong trào tôn giáo mới”5.
Như vậy, phong trào tôn giáo mới hay giáo phái mới, hay tà đạo, tà giáo, đạo lạ… nhằm chỉ các hiện tượng tôn giáo mới6 được phát sinh từ những hoạt động có tính chất tôn giáo hay cả các hoạt động lợi dụng tôn giáo. Viện Nghiên cứu Tôn giáo cũng đã đưa ra thuật ngữ cho các nhóm, phái này là hiện tượng tôn giáo mới7, bởi các hiện tượng này có thể được sinh ra từ những tôn giáo chính danh (đã được Nhà nước công nhận), có vay mượn các giáo lý, kinh sách của các tôn giáo đã có; hoặc dung hợp giữa tín ngưỡng bản địa với các giáo lý tôn giáo khác; hoặc là có các giáo lý mới, mang tính chất thần bí, chữa bệnh tâm linh, rèn luyện sức khỏe…
Do vậy, trong bài viết này chúng tôi sử dụng thuật ngữ “hiện tượng tôn giáo mới” để chỉ các nhóm, phái… có tính chất tôn giáo, chưa được công nhận và đăng ký hoạt động, mới nổi tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam xuất hiện từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, với lý do khái niệm này dễ được chấp nhận cả trong giới nghiên cứu và quản lý.
Một số đặc điểm các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta hiện nay, ngoại trừ một số hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam, còn lại đa số đều có nguồn gốc phát sinh từ trong nước và phần nhiều xuất hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Các hiện tượng tôn giáo mới này xuất hiện và tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phía Bắc, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, hiện tượng tôn giáo mới đã và đang xuất hiện, phát triển ở nhiều địa phương trên cả nước, vùng sâu, vùng xa. Đã có những hiện tượng tôn giáo mới mà người tin theo chỉ là đồng bào dân tộc thiểu số.
Phần lớn những người đề xướng (lập ra) các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam là phụ nữ và số đông người tin theo cũng là phụ nữ, tập trung vào đối tượng những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện đều mang mục đích cá nhân của những người sáng lập, thậm chí có biểu hiện nhằm thu lợi bất chính về kinh tế.
Theo thống kê chưa đầy đủ, từ những năm 1980 của thế kỷ trước cho đến nay, tại Việt Nam con số các hiện tượng tôn giáo mới dao động khoảng từ 80 đến 132 loại. Đến thời điểm hiện nay là 71 loại với nguồn gốc và tên gọi khác nhau, trong đó có 27 hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam và 44 hiện tượng tôn giáo mới hình thành từ trong nước. 1) Loại từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam như: Thanh Hải Vô Thượng Sư (từ Đài Loan), Tam Thiên thánh hiền (từ Đài Loan), Ômôtô giáo (từ Nhật Bản), Vô Vi hay Vô Vi Pháp (từ Pháp), Phật mẫu địa cầu hay Địa Mẫu (từ Trung Quốc), Ôn Baha (từ Ấn Độ) và Soka Gakkai (từ Nhật Bản); 2) Loại hình thành từ trong nước, có nhiều yếu tố của đạo Phật và các tín ngưỡng dân gian. Địa bàn xuất hiện ban đầu tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh trung du Bắc Bộ, sau đó lan rộng ra cả nước, như: “Lẽ phải” xuất hiện ở Đà Nẵng năm 1986; Long Hoa Di Lặc xuất hiện ở Phú Thọ năm 1988; Tiên Thiên Huỳnh đạo xuất hiện ở Bà Rịa - Vũng Tàu năm 1981. Từ năm 1990 đến 1995 con số hiện tượng tôn giáo mới tăng nhanh: Long Hoa Di Lặc (1990); Quang Minh tu đức (1990); Đạo Bác Hồ (1992); Đạo Phật thiên (1992); Ngọc Phật Hồ Chí Minh (1993); Quần Tiên (1993); Nghiệp Chướng (1993); Siêu hóa (1994); Quang Minh tu đức (1994); Địa Mẫu (1995); Tiên Thiên (1997); Đạo Tiên (1997); Đạo Con hiền (1997); Chân đất (1998); Quang Minh (1998); Võ đạo Phật tổ Như Lai (1998); Hoa Vàng (1999); Chân tâm bảo vệ di tích (2000)…
Khu vực đồng bằng Bắc Bộ, là nơi tập trung xuất hiện nhiều hiện tượng tôn giáo mới có yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Trong những năm gần đây thì các hiện tượng tôn giáo mới không chỉ phát triển về số lượng mà đều có sự phát triển rộng trên địa bàn các tỉnh, thành trong cả nước, như: Nhóm Long Hoa Di Lặc, Nhóm Thanh Hải Vô Thượng sư, Nhóm Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Pháp Luân Công, Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ (dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu, song đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở nhiều tỉnh, thành phố)…
Các hiện tượng tôn giáo mới cũng thường sử dụng biện pháp đổi tên đạo để dễ thích nghi, như: Đạo Chân Không của Lưu Văn Ty lập năm 1991 được sử dụng với các tên khác như: Đạo Siêu hóa; Đạo tâm pháp; Đạo Chân đất…; Đạo Vô Vi Khoa học huyền bí Phật pháp do Lương Sĩ Bằng lập từ năm 1958 (Canada) mang các tên khác như: Vô vi khoa học huyền bí, Vô Vi, Vô Vi pháp; Đạo Ngọc Phật Hồ Chí Minh do bà Nguyễn Thị Lương lập năm 1963 ở Hải Phòng, khi hoạt động ở các địa bàn khác đổi tên: Đức Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Quang Minh Hồ Chí Minh, Đạo Bác Hồ, Thánh Minh vì tình dân tộc. Hay Long Hoa Di Lặc cũng có các tên khác như: Long Hoa Tam hội, Long Hoa Chính pháp…
Khu vực Tây Nguyên là nơi tập trung nhiều hiện tượng tôn giáo mới có yếu tố Tin lành, Công giáo, Phật giáo như: Bơ khắp Brâu, Thanh Hải Vô Thượng sư, Cây Thập giá của Chúa Giêsu Christ, Tâm linh Hồ Chí Minh, Amí Sara, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Tâm linh đạo, Canh Tân Đặc sủng, Đạo Trời Thái Bình, Bửu tòa Tam giáo (Đạo Trời), Trường Sinh học...;
Khu vực Nam Bộ, các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện trong “phong trào các Ông đạo”, Thiên Địa hội, Đạo Nằm, Đạo Đứng… Tuy nhiên, hoạt động của các hiện tượng này vẫn có nét “sinh hoạt đạo” tương đối gần gũi với cuộc sống đời thường, một số trường hợp có nội dung sinh hoạt khác biệt như Đạo Dừa ở Bến Tre, người theo đạo được khuyên ít tắm rửa, để tóc dài, sống chủ yếu bằng nước dừa và thiền định.
Nguyên nhân ra đời và phát triển các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
Một là, Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước, một bộ phận không thích nghi được môi trường phát triển kinh tế mới nên đời sống gặp nhiều khó khăn, tâm lý bất an, lo âu trước sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống xã hội đã tìm đến sự trợ giúp của “thần linh mới”.
Hai là, “khoảng trống tâm linh” luôn hiện hữu trong đời sống xã hội, các tôn giáo lớn, tôn giáo truyền thống đã có ở nước ta “không còn/chưa thoả mãn” nhu cầu của một bộ phận tín đồ với những niềm tin/tâm linh cũ và họ có nhu cầu tìm kiếm niềm tin mới. Bất đồng trong đội ngũ lãnh đạo Giáo hội cùng với việc quản đạo có những vấn đề bất hợp lý cũng là nguyên nhân dễ dẫn đến ly khai, hình thành tôn giáo mới.
Ba là, người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn giữ trong tâm thức của mình về truyền thống “tam giáo đồng nguyên” đạo nào cũng tốt, do vậy việc xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới dễ được người dân đón nhận.
Bốn là, lợi ích kinh tế và mong muốn có vị thế xã hội của một người (giáo chủ), nhóm người muốn nổi tiếng đã thôi thúc họ thành lập ra hiện tượng tôn giáo mới để khẳng định mình bằng con đường tâm linh.
Ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới đối với xã hội và đối với khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay
Về ảnh hưởng tích cực, một số hiện tượng tôn giáo mới phần nào đáp ứng được nhu cầu tinh thần, bù đắp tâm lý và niềm tin trước những khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận người dân; là một trong những phương thức để người tin theo thể hiện tâm tư đối với những bất cập của xã hội, những khó khăn thực tại đang đặt ra với đời sống của họ. Một số hiện tượng tôn giáo mới có những nội dung sinh hoạt tôn vinh những người có công với cộng đồng, dân tộc, thể hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn”; một số khác gắn với việc luyện tập tăng cường sức khỏe, kết hợp chữa bệnh bằng các yếu tố “tâm linh” và “bài thuốc” đơn giản, nên có sức “hấp dẫn” đối với những người muốn cải thiện sức khỏe và chữa trị các bệnh hiểm nghèo. Ở một số địa phương có hiện tượng tôn giáo mới còn là yếu tố góp phần hình thành những cộng đồng dân cư liên kết niềm tin, cố kết cộng đồng tại một địa bàn cư trú nhất định. Tính cố kết đó làm cho các thành viên có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống cũng như đóng góp vào các phong trào chung ở địa phương.
Về ảnh hưởng tiêu cực, hiện tượng tôn giáo mới có những nơi đã gây ra mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn giữa người theo và không theo, phương hại đoàn kết cộng đồng. Một số hiện tượng tôn giáo mới đã công kích tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, hợp pháp, làm nảy sinh các mâu thuẫn. Ở đây, hiện tượng tôn giáo mới đã làm phức tạp hoá nhận thức người dân, khi họ từ sự phân biệt có khi thiếu toàn diện giữa đúng và sai, tốt và xấu, mà ảnh hưởng không tốt trên địa bàn, đến khối đại đoàn kết dân tộc.
Một số hiện tượng tôn giáo mới có mối quan hệ chỉ đạo, hỗ trợ về vật chất của thế lực xấu ở nước ngoài, ít nhiều gây rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho hệ thống chính trị ở một số cơ sở giảm hiệu lực và uy tín.
Các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giải quyết vấn đề hiện tượng tôn giáo mới, từ vận động, tuyên truyền giáo dục; tăng cường quản lý nhà nước, thậm chí cấm đoán; đến hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và củng cố, tăng cường hệ thống chính trị cơ sở… Từ đó, các địa phương đã hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của hiện tượng tôn giáo mới, góp phần vào ổn định an ninh trật tự nội vùng. Tuy nhiên, công tác đối với hiện tượng tôn giáo mới còn gặp nhiều khó khăn do đây là khu vực còn nghèo, vùng sâu, vùng xa, hệ thống chính trị cơ sở còn bất cập, trong khi đó hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ngày càng đa dạng, tinh vi, một số được tổ chức và chỉ đạo từ nước ngoài.
Những kiến nghị về giải pháp đối với công tác quản lý và vận động trong vấn đề hiện tượng tôn giáo mới thời gian tới, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
Một là, tăng cường công tác nghiên cứu nhận diện, phân loại và đánh giá tác động xã hội để tạo luận cứ khoa học trong xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật đối với các loại hiện tượng tôn giáo mới.
Hai là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phố biến và thống nhất trong giải quyết đối với các hiện tượng tôn giáo mới.
Ba là, cần có định hướng rõ cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tôn giáo với tín ngưỡng truyền thống, giữa tôn giáo truyền thống và các hiện tượng tôn giáo mới xâm nhập.
Bốn là, cần phân biệt rõ đâu là hiện tượng tôn giáo mới đơn thuần do nhu cầu tâm linh của người dân, đâu là các hiện tượng tôn giáo mới có biểu hiện trục lợi, phản văn hóa, bị lợi dụng về chính trị.
Năm là, tập trung phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho Nhân dân. Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giúp người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn hoà nhập cộng đồng, vươn lên trong cuộc sống. Tiếp tục đầu tư có hiệu quả các chương trình, dự án, mục tiêu quốc gia xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật về dân tộc trên địa bàn, để phát triển nhanh và toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam rất phong phú, đa dạng về chủng loại với phương thức hoạt động rộng khắp trên các địa bàn khác nhau. Đây là vấn đề cần được sự quan tâm, chung tay của cả hệ thống chính trị, nhất là trong công tác tuyên truyền, vận động những người tin theo và cả những người cốt cán hay đứng đầu của các hiện tượng tôn giáo mới. Một số hiện tượng tôn giáo mới có thể hướng về với các tôn giáo chính thống, nơi mà nó khởi phát, một số khác có thể xem xét cấp phép đăng kí hoạt động nếu chỉ đơn thuần hoạt động tôn giáo và phù hợp với đời sống văn hóa - xã hội của từng vùng, miền.
Thời gian tới, tình hình hiện tượng tôn giáo mới trên địa bàn các tỉnh, thành phố vẫn sẽ còn diễn biến phức tạp, có sự móc nối với các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, gây mâu thuẫn. Tiếp tục tập trung đông người, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục những người nhẹ dạ cả tin để thực hiện hành vi chống phá chính quyền, đời sống kinh tế của một bộ phận người dân vẫn còn khó khăn cả về vật chất và tinh thần.
Do vậy, cần có những biện pháp, giải pháp tùy theo từng đặc thù của địa phương. Trước hết, cần nắm chắc quan điểm cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Bởi vậy, công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo phải thực hiện theo phương châm “Trọng dân, gần dân, thân dân, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân”. Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo không chỉ bằng lời nói, mà còn phải thông qua những hành động cụ thể, nhất là việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào.
Chú thích:
1. Các phong trào Thời đại mới (New Age movements) có thể chỉ là cổ súy cho một triết lý sống hay cách nhìn nào đó mới lạ về thế giới, mang chiều kích tâm linh nhưng không nhất thiết có đối tượng và hành vi thờ cúng hay tổ chức cộng đồng cụ thể.
2. Trần Nghĩa Phương (2001), “Vấn đề tôn giáo mới trong công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, tr.20 - 29; Nguyễn Ngọc Phương Trang (2012), “Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới II tới những năm 1990 và tác động xã hội của chúng”, Luận văn Thạc sĩ châu Á học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012; PGS.TS. Trương Văn Chung (2014), “Về thuật ngữ tôn giáo mới”, tr.143.
3. Ban Dân vận Trung ương (2007), Hỏi đáp một số vấn đề về đạo lạ ở nước ta hiện nay, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội; Phạm Văn Phóng, Nguyễn Văn Nhụ (2008), “Nhìn nhận về đạo lạ ở nước ta trong những năm gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9.
4. Võ Minh Tuấn (1996), “Những hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam”, trong: Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội; Đỗ Quang Hưng (2001), “Hiện tượng tôn giáo mới: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5; Nguyễn Quốc Tuấn (2011), “Về hiện tượng tôn giáo mới”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12.
5. Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đỗ Quang Hưng (2001), “Hiện tượng tôn giáo mới” mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5. Tr 3-12.
7. Thuật ngữ này đã được Viện Nghiên cứu Tôn giáo sử dụng như thuật ngữ chính để chỉ các hiện tượng tôn giáo mới nổi, nhất là sau Hội thảo khoa học về hiện tượng tôn giáo mới năm 2001 của Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
Nguyễn Ngọc Quỳnh
TS, Phó Trưởng ban Tôn giáo, UBTW MTTQ Việt Nam